- Trang chủ
- Sách y học
- Bài giảng giải phẫu bệnh
- Giải phẫu bệnh Carcinom nội mạc tử cung
Giải phẫu bệnh Carcinom nội mạc tử cung
Carcinom nội mạc tử cung có xuất độ cao nhất trong các ung thư đường sinh dục nữ ở Mỹ, với 39.000 trường hợp mới hàng năm (1984). Xuất độ carcinom nội mạc cao ở Canada và Âu Châu, thấp ở Á Châu, Phi Châu và Nam Mỹ.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Carcinom nội mạc tử cung có xuất độ cao nhất trong các ung thư đường sinh dục nữ ở Mỹ, với 39.000 trường hợp mới hàng năm (1984). Xuất độ carcinom nội mạc cao ở Canada và Âu Châu, thấp ở Á Châu, Phi Châu và Nam Mỹ.
Có 2 dạng carcinom nội mạc, một chịu ảnh hưởng của estrogen, thường xảy ra ờ phụ nữ da trắng ở lứa tuổi trước và trong mãn kinh, thường là dạng biệt hoá rõ và thường đi kèm với tăng sản nội mạc. Dạng thứ hai không chịu ảnh hưởng của estrogen, thường gặp ở phụ nữ da đen, sau mãn kinh (trên 60 tuổi), thường biệt hoá kém, độ ác tính cao, xâm nhập sâu vào cơ tử cung và không kèm tăng sản nội mạc mà thường có nội mạc tử cung teo đét.
Đại thể
Bề mặt nội mạc lồi lõm, bóng, vàng, có thể có xuất huyết khu trú. Nếu carcinom xâm nhập vào lớp cơ tử cung, tử cung to hơn bình thường. Cũng có khi carcinom xâm nhập lớp cơ lan tỏa, tử cung vẫn teo nhỏ. Các ổ ung thư xâm nhập lớp cơ có dạng những nốt trắng rải rác trong lớp cơ và những vùng hoại tử màu vàng, hoặc có dạng những giải mô màu trắng xám, giới hạn rõ, xen vào trong lớp cơ.
Vi thể
Có 4 tiêu chuẩn tiêu chuẩn chẩn đoán carcinom xâm nhập mô đệm:
Phản ứng mô đệm: Các nguyên bào sợi xếp song song với nhau, san sát nhau, xơ hoá nhiều, làm thay đổi cách sắp xếp tuyến bình thường.
Các tuyến có dạng nhú phức tạp, với nhiều nhú ở quá một nửa quang trường nhỏ.
Các tuyến tập trung lại với nhau quá một nửa quang trường nhỏ, thành dạng sàng, không có mô đệm xen kẽ giữa các ống tuyến.
Mô đệm bị thay thế bởi các đám tế bào gai ở quá một nửa quang trường nhỏ. (tức là đường kính quá 2,1mm).
Carcinom tuyến dạng nội mạc tử cung điển hình
Thường gặp ở khoảng 60 tuổi. Bệnh nhân thường có tiền căn bệnh béo phì, ít con, hoặc sinh con muộn sau 40 tuổi.
U thường biệt hoá rõ, với các ống tuyến xếp sát nhau, không có mô đệm xen kẽ giữa các ống tuyến. Tế bào tuyến dị dạng, có khi sắp xếp thành dạng nhú hay dạng sàng (xem các tiêu chuẩn chẩn đoán carcinom xâm nhập).
U thường xâm nhập đến các mô lân cận, qua ống dẫn trứng, qua màng bụng.
Di căn theo đường limphô di căn đến các hạch limphô vùng chậu trước, sau đến hạch cạnh động mạch chủ. Di căn theo đường máu đến phổi, gan, xương, não.
Sau điều trị, tỉ lệ sống thêm 5 năm thay đổi tùy giai đoạn: 100% nếu u chỉ có ở lớp nội mạc, 97% nếu u xâm nhập 1/3 trong lớp cơ, 86% nếu u xâm nhập 1/3 giữa lớp cơ và 83% nếu u xâm nhập ra 1/3 ngoài lớp cơ.
Carcinom dạng nhu
Có các nhú với trục liên kết thưa, mỏng, bao phủ bởi một lớp thượng mô trụ, với nhân bầu dục, đều. U thường xâm nhập lớp cơ nông. U có tiên lượng tốt, tương tự như carcinom tuyến nội mạc điển hình.
Carcinom chế tiết
Hiếm gặp, chiếm 1-2% ung thư nội mạc. Bệnh nhân thường ở tuổi sau mãn kinh, trung bình 58 tuổi, thường có tiền căn béo phì, cao huyết áp, tiểu đường, hoặc có sử dụng estrogen ngoại lai. U thường gây Xuất huyết âm đạo bất thường.
U có các tuyến biệt hoá rõ, với các tế bào trụ chứa không bào dưới và trên nhân giống như tế bào ở giai đoạn chế tiết. Nhân ít dị dạng (độ 1).
U có tiên lượng tốt. Tỷ lệ sống thêm sau 5 năm là 87%.
Carcinom có tế bào có lông chuyển
Hiếm gặp, thường gặp ở phụ nữ có sử dụng estrogen ngoại lai, xảy ra sau mãn kinh và gây Xuất huyết bất thường. U biệt hoá rõ hay vừa, có khi có dạng sàng. Các tế bào tuyến ưa eosin và có lông chuyển, nhân tế bào có hạt nhân lớn, chất nhiễm sắc thể và màng nhân không đều. U ác tính thấp, có khi xâm nhập đến 2/3 lớp cơ.
Carcinom tuyến với chuyển sản gai
U thường gặp hơn ở phụ nữ có dùng thuốc estrogen (50% các trường hợp ung thư có tiền căn sử dụng estrogen). U có ít nhất 10% thành phần gai, gồm các tuyến biệt hoá rõ chiếm ưu thế và các ổ tế bào gai lành khu trú trong lòng các ống tuyến. Các nhân tế bào gai đều dạng, có cầu liên bào và có tạo sừng.
Cần phân biệt ung thư này với tăng sản nội mạc không điển hình kèm chuyển sản gai, dựa trên các tiêu chuẩn chẩn đoán carcinom xâm nhập mô đệm. U có tiên lượng tốt.
Carcinom tuyến-gai
Thường gặp ở bệnh nhân lớn tuổi (65 tuổi). Các yếu tố nguy cơ là phụ nữ béo phì, ít sinh đẻ hay không sinh đẻ, có tiểu đường và cao máu. Bệnh nhân thường có Xuất huyết âm đạo bất thường.
U gồm thành phần tuyến chiếm ưu thế, với các tuyến biệt hoá kém, nhân dị dạng độ 2 hay độ 3, tỷ lệ nhân trên bào tương tăng, có nhiều hình ảnh phân bào. Thành phần gai ác tính chiếm ít nhất 10% thể tích u, gồm các giải, các đám tế bào gai ác tính phát triển trong lòng tuyến và ra cả bên ngoài tuyến. Có khi các tế bào ác tính sắp xếp dạng củ hành và tạo ra kêratin.
U có tiên lượng xấu hơn so với ung thư nội mạc điển hình. Tỉ lệ sống thêm sau 5 năm là 40%.
U thường xâm nhập vào 1/3 lớp cơ sâu, vào các mạch máu và di căn vào hạch chậu và hạch cạnh động mạch chủ.
U di căn đến vùng chậu và ổ bụng, vào ruột, mạc treo, gan, thận, lách và hạch limphô.
Điểm chẩn đoán phân biệt của u với carcinom tuyến-gai ở cổ tử cung, là ở thân tử cung thành phần tuyến ác tính chiếm ưu thế, còn ở cổ tử cung thành phần gai chiếm ưu thế.
Carcinom nhầy
Hiếm gặp, chiếm 9% ung thư nội mạc tử cung. U phải có hơn 50% tế bào PAS dương tính, thường có các ống tuyến dãn nở, chứa đầy mucin và các nhú thượng mô bao quanh bởi các vũng mucin ngoại bào, với bạch cầu đa nhân trung tính. Các tế bào thượng mô lót tuyến và nhú trụ cao, đều đặn, đơn tầng. Tế bào dị dạng nhẹ hay vừa. Mucin nội bào có dạng hạt hay bọt trên tiêu bản nhuộm H.E và được xác định qua nhuộm PAS, mucicarmine hay Alcian blue. U biệt hoá kém, tiên lượng tốt.
Carcinom trong
Bệnh nhân thường lớn tuổi (tuổi trung bình là 66).
U có dạng nhú nhiều nhánh tương tự như carcinom dịch trong của buồng trứng. Các nhú hoá sợi nhiều, và được bao phủ bởi một hay nhiều lớp tế bào trong, dị dạng độ 2 và 3 với hạt nhân lớn, nhân đậm màu, dị dạng to nhỏ không đều. Có thể gặp đại bào hay các thể cát. U thường cho di căn sớm vào cơ tử cung và hạch limphô. U có tiên lượng xấu.
Carcinom tế bào sáng
Bệnh nhân thường lớn tuổi (tuổi trung bình là 67).
U có thể có dạng đặc, nhú, ống hay dạng bọc. Các tế bào hình chân đế, lớn, bào tương sáng hay ưa eosin, chứa glycogen. Nhân dị dạng nhiều, to nhỏ không đều, lớn, hạt nhân to, có nhiều phân bào. U thường biệt hoá kém. Tiên lượng xấu. Tỷ lệ sống thêm sau 5 năm là 44% ở các bệnh nhân ở giai đoạn I.
Carcinom tế bào gai
Rất hiếm gặp. Chỉ chẩn đoán carcinom tế bào gai nội mạc khi trong nội mạc không có carcinom tuyến, u không có liên hệ gì với thượng mô gai cổ tử cung và ở cổ tử cung không có carcinom tế bào gai.
Carcinom không biệt hoá
U có hình thái không biệt hoá thành tuyến hay gai.
Ung thư di căn
Carcinom buồng trứng, carcinom vú, carcinom dạ dày, mêlanom ác, ung thư đại tràng có thể di căn vào tử cung.
U thường xâm nhập lan tỏa ở nội mạc, thường là dạng biệt hoá kém và không có hiện tượng chuyển sản gai.
Bài viết cùng chuyên mục
Giải phẫu bệnh nội mạc tử cung và vòng tránh thai
Vòng có chất đồng ít gây ra viêm hơn. Bạch cầu thường chỉ tập trung trong lòng các ống tuyến, có xuất tiết ở bề mặt nội mạc tử cung còn mô đệm nội mạc bình thường.
Giải phẫu bệnh thiếu nước và sung huyết
Thiếu hụt nước sẽ gây tăng natrium máu làm tăng trương lực của dịch ngoài tế bào kèm thiếu nước trong tế bào. Ngược lại, thiếu hụt natrium hoặc hạ natrium sẽ cản trở việc chế tiết hormon chống lợi niệu làm nước thoát ra ngoài kèm nước nhập vào trong tế bào.
Giải phẫu bệnh u cơ trơn tử cung
Thường tử cung có nhiều u, hình cầu và chắc, lồi ra khỏi mô cơ lân cận. Mặt cắt trắng hoặc vàng, có dạng cuộn. U có thể có nhiều vị trí: dưới nội mạc, trong cơ và dưới thanh mạc.
Giải phẫu bệnh bệnh tim và mạch máu
Bình thường, vào tuần thứ 4 của bào thai, 2 ống phôi tim mạch hòa nhập vào thành một với 4 buồng: xoang tĩnh mạch, tâm nhĩ, tâm thất và bầu thất.
Giải phẫu bệnh hoạt động đại thực bào
Đại bào có kích thước lớn và chứa tới hàng chục nhân, được hình thành do nhiều đại thực bào kết dính với nhau hoặc do đại thực bào có nhân chia nhưng bào tương không phân chia. Có thể phân biệt 2 dạng đại bào:
Giải phẫu bệnh u ác tính cổ tử cung
Tăng sản thượng mô với tế bào tương đối non, mất cực tính. Các tế bào dạng đáy hay dạng cận đáy chiếm từ 1/3 đến hầu hết bề dày lớp thượng mô.
Giải phẫu bệnh ung thư
Các ung thư thường gặp ở nam giới là ung thư của tuyến tiền liệt, phổi, và đại tràng. Ở nữ giới, các ung thư thường gặp là cổ tử cung, vú, phổi, và đại tràng.
Giải phẫu bệnh viêm xương
Bệnh viêm mủ xương-tủy có thể chia làm 3 giai đoạn diễn tiến liên tục và chuyển đổi từ từ không có ranh giới rõ rệt: cấp, bán cấp và mạn tính.
Giải phẫu bệnh của tuyến nước bọt
Nước bọt có nhiều nước, mucin, glycoprotein giúp làm trơn thức ăn, làm dễ nuốt. Nước bọt có tính sát khuẩn và là một chất đệm tốt. Trong nước bọt cũng có enzym amylase (ptyalin) có khả năng biến đổi tinh bột thành maltose và phân giải glycogen, và nhiều loại enzym khác.
Giải phẫu bệnh u hỗn hợp trung bì tử cung
U Muller hỗn hợp là loại sarcom tử cung thường gặp nhất dù chỉ chiếm 1,5% u ác tử cung và là u có độ ác tính cao
Giải phẫu bệnh bệnh buồng trứng
Bệnh lý viêm rất hiếm gặp. U có thể sinh ra từ những mô phức tạp của buồng trứng trưởng thành hay của vết tích mô phôi của buồng trứng.
Mối quan hệ giữa giải phẫu bệnh và lâm sàng
Các lĩnh vực như sinh học phân tử, hóa mô miễn dịch, và di truyền học đã được áp dụng trong nghiên cứu các bệnh ung thư và trong thực tiển điều trị căn bệnh này.
Tổn thương cơ bản của tế bào và mô
Các enzym này trong máu có thể đo lường và sử dụng trên lâm sàng để phát hiện bệnh và theo dõi điều trị, ví dụ trong nhồi máu cơ tim.
Giải phẫu bệnh viêm lao
Trực khuẩn lao không có ngoại độc tố hoặc nội độc tố nhưng thành phần hóa học cấu tạo vi khuẩn đã tác động gây bệnh trên cơ thể người.
Giải phẫu bệnh u lành tính dạ dày
Dù chỉ có xuất độ 0,5% các trường hợp tử thiết, pôlíp cũng là loại u lành thường thấy nhất của dạ dày. Có 2 loại: pôlíp tăng sản và u tuyến dạng pôlíp.
Giải phẫu bệnh viêm dạ dày
Trong thể bệnh nhẹ, thượng mô bề mặt còn nguyên và lớp dưới có thấm nhập rải rác bạch cầu đa nhân.
Giải phẫu bệnh phù
Phù là sự ứ đọng bất thường các dịch đó trong ở mô đệm kẽ, còn ứ đọng dịch ở trong tế bào là hiện tượng thũng đồng thẩm thấu. Hình thái đại thể và vi thể của phù thường khác biệt tùy thuộc vị trí và cấu trúc của tạng bị thương tổn.
Giải phẫu bệnh bệnh của miệng và xương hàm
Một loại không thường gặp là u nguyên bào cơ có hạt ở lưỡi, có hình thái giống u cùng tên ở nơi khác, gồm những tế bào to với bào tương có hạt.
Giải phẫu bệnh viêm giang mai
Xoắn khuẩn chưa hề được nuôi cấy trong môi trường nhân tạo và rất yếu, dễ bị hủy hoại do hóa chất, hoặc do sức nóng, khô hanh, nhưng chịu được lạnh.
Giải phẫu bệnh u mô đệm nội mạc tử cung
Đôi khi u hoá bọc, nhưng ít hoại tử xuất huyết. U thường nằm trong lớp cơ hay dưới thanh mạc nhưng không xâm nhập.
Giải phẫu bệnh bệnh của tế bào nuôi
Về hoá mô miễn dịch, các tế bào nuôi không tiết ra nội tiết tố, các nội tiết tố như HCG và HPL
Giải phẫu bệnh tuyến giáp
U giả, được hình thành do sự tồn tại của mô ống giáp-lưỡi, tiến triển rất chậm, 1/3 trường hợp có từ lúc mới sinh, 2/3 trường hợp chỉ xuất hiện khi bệnh nhân lớn.
Giải phẫu bệnh ung thư gan
Ngày nay người ta thấy có sự liên quan rõ ràng giữa ung thư này với bệnh xơ gan, với sự nhiễm virus viêm gan siêu vi B.
Phôi thai mô học và sinh lý học tử cung
Sau rụng trứng, các tuyến có hoạt động chế tiết ở đầu giai đoạn này, các tế bào tuyến có nhiều không bào chứa glycogen, và đội nhân hơi cao.
Giải phẫu bệnh các yếu tố và giai đoạn của viêm
Viêm (từ nguyên la tinh inflammare có nghĩa là lửa cháy và từ nguyên Hán ( ) có nghĩa là nóng, nhiệt) là một hiện tượng đã được nói đến từ thời cổ đại (thiên niên kỷ 4 trước công nguyên - thế kỷ 5 sau công nguyên).