- Trang chủ
- Sách y học
- Bài giảng giải phẫu bệnh
- Giải phẫu bệnh bệnh thực quản
Giải phẫu bệnh bệnh thực quản
Thực quản có lớp niêm mạc là thượng mô lát tầng không sừng hoá, đoạn gần tâm vị có tuyến giống tuyến tâm vị. Lớp cơ thực quản có 2 loại: cơ vân ở 1/3 trên và cơ trơn 2/3 dưới.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Thực quản có lớp niêm mạc là thượng mô lát tầng không sừng hoá, đoạn gần tâm vị có tuyến giống tuyến tâm vị. Lớp cơ thực quản có 2 loại: cơ vân ở 1/3 trên và cơ trơn 2/3 dưới. Vì không có lớp thanh mạc, nên các tổn thương thực quản thường gây biến chứng dò sang khí quản, trung thất.
Thức ăn từ thực quản xuống dạ dày rất nhanh nhưng để tránh sự trào ngược từ dạ dày lên thực quản do áp suất ổ bụng cao hơn áp suất lòng thực quản, có 2 cơ vòng trên và dưới. Cơ vòng dưới đóng mở theo sự điều tiết của lượng gastrin: khi thức ăn xuống hang vị, kích thích chế tiết gastrin, làm tăng trương lực đóng kín cơ vòng dưới.
Dị tật bẩm sinh
Dị tật bẩm sinh thực quản hiếm gặp, nếu có thường được phát hiện ngay sau khi trẻ sinh ra: trẻ nôn khi bú. Các dị tật này gồm:
Chít hẹp và dò thực quản.
Vô tạo thực quản.
Dị tật thường gặp hơn là chít hẹp. Thực quản không có lòng ống và teo thắt lại như sợi dây. Về tạo phôi học, ống tiêu hóa và ống hô hấp phát triển từ một ống chung, nên dị tật ống này thường kèm dị tật ống kia: 80-90% chít hẹp thực quản có lỗ dò với khí quản, ở đoạn chia đôi thành 2 phế quản gốc. Hậu quả là thức ăn trào sang khí quản gây nôn sặc, nghẹt thở, rối loạn điện giải, viêm phổi và tử vong.
Co thắt tâm vị
Gặp ở mọi tuổi, giới. Do thiếu các tế bào hạch thần kinh của đám rối Auerbach, thường ở đoạn giữa thực quản, khiến cho đoạn dưới thực quản mất nhu động, gây tắc nghẽn.
Triệu chứng thường gặp là nuốt nghẹn tăng dần, thức ăn ứ đọng gây nôn oẹ, nhất là về đêm dẫn tới biến chứng viêm phổi hít. Nuốt nghẹn, nôn oẹ làm cho bệnh nhân bị suy dinh dưỡng và dần dần bị suy kiệt.
Bệnh có thể điều trị bằng thuốc hoặc bằng thủ thuật nong cơ vòng dưới bằng bóng hơi hoặc bằng phẫu thuật. Khoảng 5% trường hợp bệnh diễn tiến thành ung thư thực quản.
Vòng thực quản
Có 2 loại: trên và dưới.
Vòng thực quản đoạn trên có dạng một vòng xiết ở đoạn trên cung động mạch chủ. Bệnh thường gặp ở phụ nữ trên 40 tuổi, có bệnh thiếu máu nhược sắc trong hội chứng Plummer-Vinson. Niêm mạc phủ trên vòng xiết có thể nghịch sản, gia tăng nguy cơ gây ung thư ở phần trên thực quản. Điều trị thiếu máu cũng đồng thời trị khỏi bệnh vòng xiết.
Vòng thực quản dưới ở đoạn dưới thực quản, nơi giáp ranh thượng mô lát tầng và thượng mô trụ. Vòng có dạng những gờ cao vài mm nhô vào lòng thực quản. Dưới kính hiển vi các gờ này có thượng mô lát tầng phủ trên, dưới là mô tuyến trụ cao, lớp giữa gồm mô sợi liên kết giàu mạch máu và thấm nhập nhiều tế bào viêm.
Bệnh gây nuốt nghẹn tăng dần xen lẫn những khoảng thời gian không triệu chứng. Bệnh sinh chưa rõ.
Thoát vị hoành
Thường gặp ở phụ nữ lớn tuổi, béo phì. Bệnh nhân có cảm giác đau bỏng sau xương ức.
Có 2 loại:
Thoát vị trượt (chiếm 90%), đoạn cuối thực quản dãn rộng hình chuông đỉnh ở tâm vị, kéo một phần tâm vị trượt lên lồng ngực.
Thoát vị cuốn, một phần tâm vị cuốn ngược lên bao quanh thực quản.
Xước thực quản - Hội chứng Mallory weiss
Gặp ở những người nghiện rượu, nôn mửa, gây các vết xước từ vài mm đến vài cm dọc theo thực quản gần tâm vị. Vết xước có thể nông ở niêm mạc hoặc đôi khi xuyên thấu thủng thực quản gây nôn máu ồ ạt, tử vong.
Giãn tĩnh mạch thực quản
Các tĩnh mạch thực quản phình to, ngoằn ngoèo. Đây là một trong các hậu quả của tăng áp lực tĩnh mạch cửa. Thường ở 1/3 dưới thực quản, trong lớp dưới niêm mạc, đẩy lớp niêm mạc nhô vào lòng thực quản, nên dễ bị viêm nhiễm. Khi các tĩnh mạch dãn bị vỡ, gây xuất huyết, có thể tử vong.
Xơ cứng thực quản
Xảy ra ở bệnh nhân mắc bệnh xơ cứng bì, một bệnh toàn thân, gây tổn thương nhiều bộ phận.
Ở ống tiêu hóa, thực quản và ruột non bị xơ lớp dưới niêm mạc, teo lớp cơ trơn, cuối cùng teo và loét lớp niêm mạc.
Bệnh tiến triển gây xơ cứng và hẹp dần đến đại tràng. Tiên lượng rất xấu.
Túi thừa thực quản
Là những túi có kích thước 2-4 cm, được lót bởi lớp niêm mạc và một ít sợi bao quanh. Những túi thừa ở 1/3 trên và 1/3 dưới thực quản thường do sự tăng áp lực trong lòng thực quản trong các bệnh thoát vị hoành, co thắt tâm vị, vòng thực quản. Những túi thừa ở 1/3 giữa thường là hậu quả của viêm thực quản.
Túi thừa thực quản thường không có biểu hiện lâm sàng khi kích thước còn nhỏ. Khi đủ lớn, có ứ đọng thức ăn trong túi, có thể gây nuốt nghẹn, ọe, cảm giác nặng sau cổ, nặng hơn có thể gây biến chứng viêm phổi hít, loét túi thừa, xuất huyết, nôn máu.
Viêm thực quản
Gây nuốt nghẹn, cảm giác đau sau xương ức, nôn máu (do xuất huyết). Nguyên nhân:
Trào ngược dịch vị: là nguyên nhân thường gặp nhất.
Đặt ống thông mũi-dạ dày lâu ngày.
Uống nhầm hoặc tự tử bằng hóa chất.
Tăng urê huyết.
Nhiễm khuẩn huyết.
Nhiễm nấm: Candida
Nhiễm virus: Cytomegalovirus, virus Herpes simplex
Tia xạ (ngực, trung thất)
Tùy theo mức độ tác động của nguyên nhân gây viêm, tổn thương có thể nhẹ như chỉ sung huyết, phù nề và thấm nhập nhiều tế bào viêm ở lớp dưới niêm. Lớp thượng mô lát tầng có thể chuyển sản thành thượng mô tuyến trụ cao, có khả năng gây loét kiểu loét dạ dày.
Khoảng 10% viêm thực quản diễn tiến thành carcinom.
Thực quản Barrett
Thực quản Barrett là hiện tượng chuyển sản thượng mô trụ của thượng mô lát tầng một đoạn dài trên 3 cm ở phần cuối thực quản.
Bệnh sinh có thể do bẩm sinh hoặc mắc phải, xảy ra sau viêm thực quản trào ngược hoặc loét kéo dài. Bệnh có thể xảy ra ở trẻ em do tác dụng phụ của hóa trị liệu bệnh bạch cầu cấp.
Vi thể:
Có 3 thể:
Chuyển sản ruột với các tế bào có nhung mao, khe tuyến nhơ tế bào ở ruột.
Tế bào giống ở thân vị gồm tế bào thành và tế bào chính.
Tế bào giống ở tâm vị với nhiều tuyến nhầy.
Biến chứng:
Quan trọng nhất là carcinom thực quản. Nguy cơ tiến triển thành carcinom thực quản cao gấp 30 - 40 lần bình thường. Khoảng 5 - 10% ung thư thực quản có kết hợp với thực quản Barrett.
U lành
Thường chỉ phát hiện tình cờ do mổ tử thi vì ít gây triệu chứng lâm sàng. U thường nhỏ đường kính dưới 3 cm, hầu hết có trong vách, dưới niêm mạc, đặc và màu xám.
Loại u thường nhất là u cơ trơn. Các loại u khác là u sợi, u mỡ, u mạch máu, u sợi thần kinh, u mạch limphô, u nhú (tế bào gai).
Ung thư
Ung thư thực quản có xuất độ khoảng 10% các ung thư của ống tiêu hóa.
Tuổi mắc bệnh thường gặp nhất là 50 tuổi. Hiếm gặp ở trẻ em. Xuất độ bệnh của giới nam gấp 4 lần của giới nữ. Người da đen dễ mắc bệnh gấp 4 lần người da trắng. Có 3 vùng trên thế giới có xuất độ mắc bệnh cao là Đông Bắc Iran (ở đây ung thư thực quản là nguyên nhân gây chết hàng đầu ở người lớn), vùng Transkei ở Bắc phi và vùng Nam Trung quốc.
Theo Nguyễn Chấn Hùng và cs., tại TP. Hồ Chí Minh, năm 1997, trong 10 loại ung thư có xuất độ cao nhất, ung thư thực quản đứng hàng thứ 5 ở giới nam. Bệnh cũng thường có xuất độ cao hơn ở những người có tiền căn viêm thực quản (nhất là viêm do trào dịch vị), bệnh co thắt thực quản, hẹp thực quản, túi thừa thực quản. Yếu tố môi trường cũng ảnh hưởng đến xuất độ bệnh. Hút thuốc, uống rượu, ăn uống các chất cay, nóng dễ bị ung thư thực quản. Lúc đầu, u thường không gây triệu chứng và vì thế thường được phát hiện lúc đã trễ khó điều trị khỏi.
Đại thể:
Cũng giống như các carcinom tế bào gai ở nơi khác, ung thư thực quản bắt đầu từ ung thư tại chỗ. 50% trường hợp tổn thương bắt đầu ở 1/3 dưới. 30% ở 1/3 giữa và 20% ở 1/3 trên. Lúc đầu, tổn thương nhỏ có dạng mảng cứng gồ lên màu trắng xám ở niêm mạc.
Tổn thương lan rộng theo trục thực quản, rồi làm hẹp lòng thực quản. Từ đó, có 3 dạng tổn thương:
60% là tổn thương dạng pôlíp sùi vào trong lòng thực quản.
25% là tổn thương dạng loét hoại tử, xâm nhập mô xung quanh, vào vùng phế quản, vào động mạch chủ, vào trung thất và màng tim.
15% là tổn thương dạng ăn cứng lan dọc theo vách thực quản làm dày, cứng, hẹp lòng thực quản kèm theo loét niêm mạc.
Vi thể:
Khoảng 60-70% các trường hợp là carcinom tế bào gai biệt hóa kém hoặc biệt hóa cao. Khoảng 5-10% trường hợp là carcinom tuyến (xuất nguồn từ tuyến nhầy thực quản hoặc do niêm mạc thực quản chuyển sản thành thượng mô trụ đơn). Số trường hợp còn lại là các ung thư không biệt hóa, gồm những tế bào thoái sản, đa dạng, to hoặc có khi lại là những tế bào nhỏ đồng dạng, nhân tăng sắc (gọi là carcinom tế bào dạng lúa mạch, được coi như xuất phát từ tế bào nội tiết và là một loại u trong nhóm u của hệ nội tiết lan tỏa APUDOMA có thể chế tiết ra một nội tiết tố có amine và polypeptide).
Tất cả các ung thư thực quản đều lan rộng bằng đường tiếp cận và có thể cho di căn đến hạch cổ, 1/3 giữa cho di căn hạch khí phế quản, 1/3 dưới cho di căn hạch dạ dày và thân tạng. Di căn tạng thường nhất là đến gan và phổi. Lan rộng trực tiếp đến thanh quản, khí quản, tuyến giáp, thần kinh quặt ngược, màng bao tim.
Đánh giá ung thư thực quản bằng 4 giai đoạn:
Giai đoạn I: tổn thương khu trú ở thực quản, ngắn hơn 5cm.
Giai đoạn II: tổn thương khu trú ở thực quản, dài hơn 5cm, kèm hạch có thể cắt bỏ được.
Giai đoạn III: tổn thương trên 10cm, ăn lan cấu trúc lân cận và không thể mổ cắt được tổn thương và hạch.
Giai đoạn IV: tổn thương như ở giai đoạn III kèm thủng dò hoặc di căn xa.
Biểu hiện lâm sàng lúc đầu thường không rõ ràng, có thể có nuốt khó rồi dần dần nghẹt thực quản. Bệnh nhân nuốt khó dần từ thức ăn lỏng đến thức ăn đặc. Sụt cân, suy nhược do thiếu dinh dưỡng và do ảnh hưởng của u xuất huyết và nhiễm khuẩn có thể do loét.
Đôi khi triệu chứng báo động lại là triệu chứng của hít sặc thức ăn vào phổi vì lỗ dò thực quản-khí quản. Lỗ dò này hầu như luôn luôn là biến chứng của ung thư thực quản, hiếm khi của ung thư phế quản. Di căn xa tương đối chậm, khi tổn thương tại vùng đã nặng.
Tiên lượng xấu, 70% bệnh nhân sống không quá 1 năm sau chẩn đoán và chỉ có 5-10% sống thêm 5 năm.
Chẩn đoán ung thư thực quản:
Dựa vào triệu chứng lâm sàng, X quang thực quản có cản quang, nội soi thực quản, sinh thiết qua nội soi.
Điều trị:
Chủ yếu bằng phẫu thuật. Tuy nhiên, do vị trí và diễn tiến tự nhiên của ung thư thực quản nên hầu hết các trường hợp đều không thể điều trị tận gốc được. Hóa trị chỉ có tác dụng bổ túc cho phẫu trị. Xạ trị không có kết quả.
Bài viết cùng chuyên mục
Giải phẫu bệnh tổn thương hoại tử máu
Khởi đầu, trong một thời gian ngắn, mô bị hoàn toàn thiếu máu, màu nhạt và khô. Rồi đột ngột sung huyết mạnh và tràn ngập máu kèm hoại tử.
Đại cương giải phẫu bệnh bệnh xương
Xương xốp hay xương bè hoặc xương tủy giúp cho chức năng chuyển hóa chất khoáng. Xương xốp ở đầu xương còn có nhiệm vụ truyền lực đến vỏ thân xương.
Giải phẫu bệnh khối u
U là khối mô tân tạo. Các thuật ngữ lành tính và ác tính tương quan với quá trình tân sinh. U lành tính phát triển khu trú, tại chỗ; u ác tính xâm nhập mô, và có thể di căn đến cơ quan xa.
Giải phẫu bệnh ung thư gan
Ngày nay người ta thấy có sự liên quan rõ ràng giữa ung thư này với bệnh xơ gan, với sự nhiễm virus viêm gan siêu vi B.
Giải phẫu bệnh loét mạn tính dạ dày
Yếu tố di truyền dự phần quan trọng trong loét tá tràng nhưng không có vai trò quan trọng trong loét dạ dày.
Giải phẫu bệnh nguyên nhân gây phù viêm
Khoảng 65% tổng số tế bào trong máu lưu thông là bạch cầu, 5 - 10% là bạch cầu nhân đơn, tỷ lệ còn lại là những loại tế bào khác. Bạch cầu chỉ di chuyển trong máu trong khoảng thời gian 6 giờ rồi bị hủy hoại ở lách.
Giải phẫu bệnh ung thư dạ dày
Khoảng 90-95% các ung thư của dạ dày là carcinom. Khoảng 3% là limphôm và 2% là sarcom cơ trơn. Ngoài ra, còn có u tế bào ưa bạc (là u nội tiết của ống tiêu hoá). Bốn loại này chiếm 95-99% các ung thư dạ dày.
Giải phẫu bệnh u mô đệm nội mạc tử cung
Đôi khi u hoá bọc, nhưng ít hoại tử xuất huyết. U thường nằm trong lớp cơ hay dưới thanh mạc nhưng không xâm nhập.
Giải phẫu bệnh của tuyến nước bọt
Nước bọt có nhiều nước, mucin, glycoprotein giúp làm trơn thức ăn, làm dễ nuốt. Nước bọt có tính sát khuẩn và là một chất đệm tốt. Trong nước bọt cũng có enzym amylase (ptyalin) có khả năng biến đổi tinh bột thành maltose và phân giải glycogen, và nhiều loại enzym khác.
Giải phẫu bệnh u đại tràng
Bệnh có ở mọi tuổi, nhưng thường được chẩn đoán ở bệnh nhân 60 đến 70 tuổi, nhân lúc bệnh nhân được khám bằng soi đại tràng sigma
Mối quan hệ giữa giải phẫu bệnh và lâm sàng
Các lĩnh vực như sinh học phân tử, hóa mô miễn dịch, và di truyền học đã được áp dụng trong nghiên cứu các bệnh ung thư và trong thực tiển điều trị căn bệnh này.
Giải phẫu bệnh hội chứng Asherman
Mô nạo có ít mô nội mạc. Các vùng dính trong buồng tử cung là tổ chức sợi hay cơ trơn, với phản ứng viêm nhẹ.
Giải phẫu bệnh viêm cổ tử cung
Viêm do vi khuẩn quan trọng vì có thể đi kèm với nhiễm khuẩn lên nội mạc tử cung, vòi trứng và phúc mạc chậu, hoặc lây qua nhau và thai hay bé sơ sinh.
Giải phẫu bệnh u thượng mô thông thường buồng trứng
Thượng mô nẩy chồi là hậu quả sự tăng sản thượng mô nhiều so với tăng sản mô đệm, thượng mô xếp dạng nhú, dạng chồi.
Giải phẫu bệnh dạ dày
Các tế bào nội tiết phân bố rải rác trong các tuyến ở những vùng khác nhau của dạ dày. Ngoài ra, các tế bào này nằm rải rác khắp ống tiêu hoá và nếu tính tổng số các tế bào này thì ống tiêu hoá là cơ quan nội tiết lớn nhất cơ thể.
Giải phẫu bệnh tổn thương dạng u phần mềm
Bệnh sợi phát triển trong cơ ức đòn chũm của trẻ sơ sinh và trẻ lớn, lúc đầu là một khối nhỏ nếu không được cắt bỏ về sau sẽ gây chứng vẹo cổ.
Lịch sử giải phẫu bệnh
Sau Hippcrate có Galen, Galen là một thầy thuốc và nhà triết học nổi tiếng người La Mã gốc Hy Lạp, và có lẽ là nhà nghiên cứu y học tài ba nhất của thời La Mã.
Giải phẫu bệnh u lành tính dạ dày
Dù chỉ có xuất độ 0,5% các trường hợp tử thiết, pôlíp cũng là loại u lành thường thấy nhất của dạ dày. Có 2 loại: pôlíp tăng sản và u tuyến dạng pôlíp.
Giải phẫu bệnh rối loạn chức năng tử cung
Rối loạn chức năng phổ biến nhất là dứt estrogen trong các chu kỳ kinh nguyệt không phóng noãn
Giải phẫu bệnh thiếu nước và sung huyết
Thiếu hụt nước sẽ gây tăng natrium máu làm tăng trương lực của dịch ngoài tế bào kèm thiếu nước trong tế bào. Ngược lại, thiếu hụt natrium hoặc hạ natrium sẽ cản trở việc chế tiết hormon chống lợi niệu làm nước thoát ra ngoài kèm nước nhập vào trong tế bào.
Giải phẫu bệnh hoạt động đại thực bào
Đại bào có kích thước lớn và chứa tới hàng chục nhân, được hình thành do nhiều đại thực bào kết dính với nhau hoặc do đại thực bào có nhân chia nhưng bào tương không phân chia. Có thể phân biệt 2 dạng đại bào:
Giải phẫu bệnh tuyến tiền liệt
Tổn thương viêm cấp có thể chỉ là các ổ áp xe nhỏ, nhiều chỗ, có thể là vùng hoại tử do khu trú, hoặc là tình trạng hoá mủ, sung huyết
Giải phẫu bệnh u hỗn hợp trung bì tử cung
U Muller hỗn hợp là loại sarcom tử cung thường gặp nhất dù chỉ chiếm 1,5% u ác tử cung và là u có độ ác tính cao
Giải phẫu bệnh viêm tử cung
Ổ lao nguyên phát ở phổi hay ở ống tiêu hoá. Bệnh thường gặp ở tuổi sinh đẻ và thường kèm vô sinh.
Giải phẫu bệnh phù
Phù là sự ứ đọng bất thường các dịch đó trong ở mô đệm kẽ, còn ứ đọng dịch ở trong tế bào là hiện tượng thũng đồng thẩm thấu. Hình thái đại thể và vi thể của phù thường khác biệt tùy thuộc vị trí và cấu trúc của tạng bị thương tổn.