- Trang chủ
- Sách y học
- Bài giảng giải phẫu bệnh
- Giải phẫu bệnh bệnh hốc miệng
Giải phẫu bệnh bệnh hốc miệng
Tác nhân gây bệnh được truyền từ người này sang người khác, thường do hôn nhau. Hơn ba phần tư dân số bị nhiễm, trong khoảng nữa cuộc đời.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Bệnh của hốc miệng chia thành hai nhóm: các niêm mạc, mô mềm hốc miệng (bao gồm cả các tuyến nước bọt) và các bệnh liên quan đến răng.
Tổn thương phản ứng và viêm
Tổn thương tăng sinh sợi
Còn gọi là u sợi kích thích, chủ yếu xảy ra ở niêm mạc miệng dọc theo đường cắn.
Vi thể: gồm một khối mô sợi, ít tế bào viêm, niêm mạc bao phủ mô lát tầng. Điều trị phẫu thuật cắt bỏ hoàn toàn.
U hạt sinh mủ
Tổn thương gồ cao, nhiều mạch máu, thường xảy ra ở lợi của trẻ em, thanh thiếu niên, và phụ nữ có thai. Bề mặt của tổn thương thường loét và có màu đỏ đến tím.
Vi thể: tương tự như mô hạt. U hạt sinh mủ cũng có thể được xem là một dạng u mao mạch.
Điều trị phẫu thuật cắt bỏ hoàn toàn.
Loét miệng (CANKER SORES)
Các tổn thương này là rất phổ biến, ở tuổi 20 và thường kèm với sốt, stress, liên quan đến vài loại thực phẫm nhất định. Các vết loét tự giới hạn trong vòng một vài tuần, có thể tái phát cùng một vị trí hay ở vị trí khác.
Đại thể: u nhỏ, hình tròn (kt <5 mm), loét nông trên bề mặt, thường được phủ một lớp chất tiết màu xám trắng và có bờ gồ lên, màu đỏ. Các thương tổn đơn lẻ hoặc thành nhóm trên niêm mạc miệng, đặc biệt là khẩu cái, môi, sàn miệng, và hai bên lưỡi.
Viêm do virus Herpes
Viêm niêm mạc miệng do Herpes simplex (HSV) virus type 1, là một bệnh rất phổ biến. Tác nhân gây bệnh được truyền từ người này sang người khác, thường do hôn nhau. Hơn ba phần tư dân số bị nhiễm, trong khoảng nữa cuộc đời.
Hầu hết người lớn bị nhiễm nguyên phát thường không có triệu chứng, nhưng virus vẫn còn tồn ở trạng thái không hoạt động, trong hạch quanh miệng (ví dụ, sinh ba hạch).
Khi có yếu tố kích hoạt virus (ví dụ: ánh nắng mặt trời, sốt hay tiếp xúc với lạnh, nhiễm trùng đường hô hấp, chấn thương). Xuất hiện các bóng nước, đơn độc hoặc nhiều nhỏ (đường kính < 5 mm), ở môi hay lỗ mũi. Khi bóng nước bị vỡ, để lại vết loét nông, đau, và lành trong vòng một vài tuần, nhưng dễ tái phát.
Vi thể: Các bóng nước tổn thương trong lớp thượng mô, phù gian bào. Các tế bào bị nhiễm căng tròn và có thể vùi ưa acid chứa virus. Đôi khi hiện diện tế bào nhiều nhân “kính mờ”.
Nấm Candida
Nấm Candida albicans tìm thấy ở khoang miệng khoảng 30% đến 40% dân số, và chỉ gây bệnh khi có yếu tố suy giảm miễn dịch. Nấm Candida có giả mạc, phổ biến ở những người mắc bệnh tiểu đường, thiếu máu, điều trị kháng sinh hoặc corticoid, suy giảm miễn dịch như bệnh (AIDS) cũng là đối tượng nguy cơ, hoặc các bệnh suy nhược cơ thể như ung thư.
Nấm Candida miệng có dạng, mảng bám, màu trắng ở bất cứ nơi nào trong khoang miệng. Giả mạc có thể trốc để lộ mô hạt viêm.
Vi thể: Giả mạc bao gồm vô số các sợi tơ và bào tử nấm trên nềm mô đệm nhầy.
Tổn thương tiền ung thư – Bạch sản và hồng sản
Ung thư miệng rất phổ biến trên toàn thế giới, với một tỷ lệ tử vong khá cao. Sàng lọc và phát hiện sớm trong các cộng đồng có nguy cơ, đã được đề xuất để giảm tỷ lệ mắc bệnh và tử vong đối với bệnh ung thư miệng. Hai tổn thương được khảo sát là hồng sản và bạch sản.
Theo Tổ chức Y Tế Thế Giới, bạch sản được định nghĩa là "một vết hoặc mảng bám màu trắng không thể cạo được và là tổn thương lâm sàng không đặc hiệu. Khoảng 3% dân số thế giới có tổn thương bạch sản, và trong đó có 5% đến 25% là tổn thương tiền ung thư. Như vậy, tất cả các bạch sản phải được coi là tiền ung thư, cho đến khi có kết quả mô bệnh học loại trừ.
Liên quan đến bạch sản, nhưng ít phổ biến hơn là hồng sản. Tổn thương loét trợt, trơn láng, màu đỏ, khác với niêm mạc xung quanh. Các tế bào biểu mô không điển hình, có nguy cơ biến đổi ác tính cao hơn bạch sản. Đôi khi có tổn thương vừa hồng sản và bạch sản, gọi là hồng – bạch sản lốm đốm.
Bạch sản có thể xảy ra bất cứ nơi nào trong hốc miệng, xuất hiện như là đơn độc hoặc nhiều đốm trắng hay mảng ranh giới không rõ ràng.
Vi thể: có hiện tượng tăng gai, tăng sừng. Tổn thương có thể dẫn đến nghịch sản, hay ung thư tại chỗ; mô đệm thấm nhập tế bào lymphô và đại thực bào.
U hốc miệng
U lành tính
Rất thường gặp ở miệng, đặc biệt là u sợi và u mạch máu. Các u này thường được coi như là các hamartom hơn là u thật.
Kích thước các u này rất khác nhau. Có khi có một u mạch máu to chiếm cả lưỡi làm lưỡi to, với nhiều tổn thương trên bề mặt. Khi u quá to và lan rộng, người ta thường dùng từ bệnh u sợi, hay bệnh u mạch máu.
Các u lành khác là: u nhú, u mạch limphô, u mỡ, u tuyến, u tuyến đa hình, u sợi thần kinh, u bao Schwann, nêvi.
Một loại không thường gặp là u nguyên bào cơ có hạt ở lưỡi, có hình thái giống u cùng tên ở nơi khác, gồm những tế bào to với bào tương có hạt, được phủ bởi lớp thượng mô tăng sản. U có nguồn gốc sinh mô không chắc chắn dù thường được cho là có nguồn gốc thần kinh. Ở trẻ em, có một tổn thương có hình thái tương tự u nguyên bào cơ, ở nướu răng và được coi là một u nướu bẩm sinh. Các U hiếm khác ở lưỡi là u sụn, u xương.
Ung thư hốc miệng
Carcinôm tế bào gai
Có ít nhất 95% ung thư đầu và cổ là carcinôm tế bào gai, xuất phát từ hốc miệng. Phần còn lại bao gồm carcinôm tuyến (xuất xứ tuyến nước bọt), mêlanôm, và các loại ung thư khác. Hình thái học và diễn tiến tương tự carcinôm tế bào gai nơi khác.
Carcinôm tế bào gai có thể phát sinh bất cứ nơi nào trong hốc miệng. Ung thư có thể xuất hiện trên tổn thương tiền ung thư, nhưng không nhất thiết phải có tổn thương tiền ung thư trước đó.
Trong giai đoạn đầu, ung thư có dạng mảng trắng bất thường, hoặc sùi, có thể nhầm lẫn với bạch sản.
Vi thể: bắt đầu từ nghịch sản, carcinôm tại chỗ, xâm nhập và di căn. Tùy thuộc vào vị trí của tổn thương, thường cho di căn hạch cổ; Một số trường hợp cho di căn xa, mà không tìm thấy tổn thương nguyên phát.
Carcinôm tuyến
Là ung thư các tuyến nước bọt phụ, chiếm tỉ lệ khoảng 2-3% các ung thư miệng. Nơi thường gặp là vòm khẩu cái. Một dạng của loại này là carcinôm nhầy-bì.
Tiên lượng giống như tiên lượng các ung thư khác trong miệng.
Các ung thư khác
Các Rất hiếm, như mêlanôm ác, chiếm tỷ lệ ít hơn 1% các ung thư miệng. Mêlanôm ác có dạng tổn thương màu đen ở niêm mạc miệng, có hình ảnh vi thể giống như mêlanôm ác ở da.
Nang và u do răng
Các nang lót biểu mô là tổn thương khá phổ biến trong các xương hàm. Hầu hết các nang có nguồn gốc từ biểu mô sinh răng còn sót lại trong xương hàm.
Nang rễ răng
Đây là những tổn thương rất phổ biến ở chóp răng. Là kết quả của viêm tủy răng kéo dài. Quá trình viêm có thể dẫn đến hoại tử của mô tủy, dẫn đến thông ra chóp răng và tạo áp xe. Theo thời gian, giống như bất kỳ quá trình viêm mạn tính, một tổn thương với mô hạt (có hoặc không có lớp lót biểu mô). Tổn thương viêm kéo dài như là kết quả của sự hiện diện liên tục của vi khuẩn hoặc các tác nhân tấn công khác trong khu vực.
Điều trị: cắt lọc loại bỏ hoàn toàn chất hoại tử và phục hồi răng.
Nang răng do sự phát triển của răng:
Định nghĩa: là các nang có nguồn gốc từ mầm răng. Có thể xuất hiện ở các vị trí phần nang răng trên xương hàm.
Vi thể: vách nang được lót bằng thượng mô lát tầng; mô đệm thấm nhập tế bào viêm mãn tính.
Điều trị phải loại bỏ hoàn toàn nang, nếu còn sót tỷ lệ tái phát cao; rất hiếm khi hóa ác.
Các u do răng
U răng
U được coi là một loại hamartom hơn là một u thật, do sự phát triển bất thường của mô răng.
Hầu hết các u răng cứng hoặc hoá canxi đều có chứa tất cả mô răng và có thể được nhận thấy trên hình X quang dưới dạng một tổn thương có giới hạn ở xương hàm. Mô răng có thể tạo nên răng nhỏ, khi đó u có tên là u răng kết hợp. Mô răng có thể sắp xếp ngẫu nhiên, khi đó u có tên là u răng phức tạp.
Các u răng mềm thường có mô liên kết thưa ở trung mô (u sợi-nhầy do răng), hoặc có thể chứa các đám thượng mô nguyên bào men và được gọi là u sợi-nguyên bào men.
U thượng mô hóa calcii do răng là loại không thường gặp. Vi thể: gồm những dãy tế bào thượng mô đa dạng và mô đệm sợi, trong đó có những thể ái kiềm hình cầu bị hóa calci.
U nguyên bào men
U thật, thường có ở xương hàm dưới ở vùng răng hàm và cành xương hàm. U có đặc tính xâm nhập tại chỗ, phá hủy mạnh nhưng không di căn.
U gồm những dãy hoặc đám thượng mô nguyên bào men nằm trên mô đệm liên kết dày. Các đám thượng mô nguyên bào men gồm bên ngoài là các tế bào lập phương hoặc trụ cao và ở giữa là mô võng với tế bào hình sao. Phần mô võng ở giữa thường bị thoái hóa thành những bọc nhỏ, dần dần thành bọc làm cho u có dạng đa bọc.
Các u lành không do răng
Các u lành của xương hàm gồm các loại u mạch máu, u sợi, u sợi thần kinh, u đại bào thật (cần phân biệt với mô hạt viêm có đại bào do hiện tượng tu bổ). Các u này giống như các u cùng tên ở các vị trí khác trong cơ thể.
Các u lành lớn chậm, thường không có hình cầu, mà bờ u thường lan rộng vào giữa các bè xương, do đó u dễ tái phát sau mổ lấy u vì khi mổ dễ để sót mô u.
Riêng u đại bào của xương hàm cũng dễ tái phát sau mổ, giống như đặc tính của loại u này ở các xương khác.
Tuyến nước bọt
Viêm có thể có do chấn thương, tâm lý, virus, vi khuẩn, hoặc tự miễn. Bọc nhầy là loại phổ biến nhất của tổn thương viêm tuyến nước bọt.
Các hình thức phổ biến nhất của viêm tuyến nước bọt là do virus quai bị, trong đó thường là tuyến nước bọt lớn, đặc biệt là tuyến mang tai, các tuyến khác (ví dụ, tuyến tụy và tinh hoàn) cũng có thể tham gia.
Bệnh tự miễn dịch là nguyên nhân những thay đổi viêm tuyến nước bọt trong hội chứng Sjogren.
Bọc nhầy
Là tổn thương thường gặp của tuyến nước bọt, thường do chấn thương hay tắc nghẽn tuyến nước bọt. thường gặp ở môi dưới.
Vi thể: các khoang chứa chất tiết, hiện diện nhiều đại thực bào, mô đệm thấm nhập nhiều tế bào viêm.
Phẫu thuật cắt bỏ hoàn toàn, nếu còn sót mô, sẽ tái phát.
Viêm tuyến nước bọt không đặc hiệu
Do vi khuẩn, thường xuyên nhất liên quan đến các tuyến nước bọt lớn, đặc biệt là các tuyến dưới hàm, nguyên nhân phổ biến nhất là tắc nghẽn do sỏi. tác nhân gây bệnh phổ biến là S. aureus và Streptococcus viridans.
U tuyến nước bọt
U tuyến đa dạng (u hỗn hợp)
Dịch tễ học: Khoảng 60% các khối u của tuyến mang tai. U tuyến đa dạng rất hiếm ở các tuyến nước bọt phụ.
Yếu tố nguy cơ: bức xạ.
U tròn giới hạn rõ. không đau.
Vi thể: ba thành phần là những tế bào ống tuyến, tế bào cơ biểu mô, và mô đệm (nhầy, hoặc sụn).
Điểm quan trọng:
Mặc dù u tuyến đa dạng là lành tính, chậm phát triển; sau phẫu thuật nó có một tỷ lệ tái phát cao.
Ung thư biểu mô đôi khi có thể phát sinh trong u tuyến đa dạng. Với u này tiên lượng xấu, tỷ lệ tử vong ở 5 năm là 40%.
U warthin tuyến nước bọt
Khối u lành tính đứng thứ hai sau u tuyến đa dạng tuyến nước bọt. Thường gặp ở tuyến mang tai (các khối u chỉ hầu như bị giới hạn để mang tai) và nam giới nhiều hơn nữ giới. Khoảng 10% u nhiều tổn thương. Những người hút thuốc có xuất độ gấp tám lần người không hút thuốc.
Khối u này thường nhỏ, tròn, có vỏ bao, lòng chứa chất nhầy, màu xám mềm.
Vi thể: lót hai lớp tế bào thượng mô, và mô đệm lymphô, có thể có các trung tâm mầm.
Một tỷ lệ tái phát khoảng 10% là do cắt bỏ không đầy đủ; hóa ác tính rất hiếm.
Carcinôm nhầy bì
Khối u ác tính phổ biến nhất của tuyến nước bọt, khoảng 65% được tìm thấy trong các tuyến mang tai. Chiếm khoảng 15% của tất cả các khối u tuyến nước bọt, và xảy ra chủ yếu trong mang tai (60% đến 70%), phần lớn các u tuyến nước bọt phụ.
Vi thể: u này bao gồm các hỗn hợp các tế bào gai, và tế bào tiết chất nhầy, và các tế bào trung gian.
Biểu hiện lâm sàng và tiên lượng phụ thuộc vào độ mô học của u: u độ mô học thấp có thể xâm nhập tái phát khoảng 15% trường hợp, hiếm di căn và tỷ lệ sống còn 5 năm của hơn 90%. Ngược lại, u có độ mô học cao đến trung bình, xâm nhập khó phẫu thuật triệt để, tái phát từ 25% đến 30% trường hợp, và trong đó khoảng 30% trường hợp di căn xa. Tỷ lệ sống 5 năm là 50%.
Bài viết cùng chuyên mục
Sarcom cơ trơn tử cung
Hầu hết sarcom cơ trơn nằm trong lớp cơ, dưới dạng một khối đơn độc, đường kính trung bình là 9cm, bờ không rõ rệt, mềm hay chắc.
Giải phẫu bệnh viêm não màng não
Ở trẻ em, Haemophilus influenzae là vi khuẩn thường gặp nhất gây viêm màng não; sự phát triển của vắc xin, làm giảm tỷ lệ viêm màng não rất nhiều.
Giải phẫu bệnh bệnh hô hấp
Carcinôm tế bào nhỏ vào thời điểm được chẩn đoán, thường đã di căn. Ngoài ra, còn có một số loại ung thư khác hiếm gặp như u trung mạc.
Giải phẫu bệnh viêm lao
Trực khuẩn lao không có ngoại độc tố hoặc nội độc tố nhưng thành phần hóa học cấu tạo vi khuẩn đã tác động gây bệnh trên cơ thể người.
Giải phẫu bệnh tổn thương chảy máu
Chảy máu là tình trạng máu ra khỏi hệ tuần hoàn, có thể (a): khu trú tại một điểm trong cơ thể (b) lan tỏa (thường là biểu hiện của một bệnh hệ thống).
Giải phẫu bệnh bệnh thực quản
Thực quản có lớp niêm mạc là thượng mô lát tầng không sừng hoá, đoạn gần tâm vị có tuyến giống tuyến tâm vị. Lớp cơ thực quản có 2 loại: cơ vân ở 1/3 trên và cơ trơn 2/3 dưới.
Phôi thai mô học và sinh lý học tử cung
Sau rụng trứng, các tuyến có hoạt động chế tiết ở đầu giai đoạn này, các tế bào tuyến có nhiều không bào chứa glycogen, và đội nhân hơi cao.
Giải phẫu bệnh dương vật
U có dạng sùi như quả dâu hay như bông cải, thường nằm ở rãnh vòng đầu dương vật, có dạng một hay nhiều nhú. U mềm, màu hồng và có nhiều mạch máu.
Giải phẫu bệnh ung thư
Các ung thư thường gặp ở nam giới là ung thư của tuyến tiền liệt, phổi, và đại tràng. Ở nữ giới, các ung thư thường gặp là cổ tử cung, vú, phổi, và đại tràng.
Giải phẫu bệnh tổn thương hoại tử máu
Khởi đầu, trong một thời gian ngắn, mô bị hoàn toàn thiếu máu, màu nhạt và khô. Rồi đột ngột sung huyết mạnh và tràn ngập máu kèm hoại tử.
Giải phẫu bệnh u lành phần mềm
Hình ảnh vi thể đặc hiệu là có rất nhiều thực bào với không bào lớn chứa các chất dạng mỡ, ngoài ra còn có các tế bào hình thoi tạo sợi và đôi khi có đại bào đa nhân.
Giải phẫu học cổ tử cung trong giải phẫu bệnh
Cổ tử cung được bao phủ bởi hai lớp thượng mô: thượng mô gai cổ ngoài và thượng mô trụ cổ trong.
Tổn thương cơ bản của tế bào và mô
Các enzym này trong máu có thể đo lường và sử dụng trên lâm sàng để phát hiện bệnh và theo dõi điều trị, ví dụ trong nhồi máu cơ tim.
Giải phẫu bệnh u cơ trơn tử cung
Thường tử cung có nhiều u, hình cầu và chắc, lồi ra khỏi mô cơ lân cận. Mặt cắt trắng hoặc vàng, có dạng cuộn. U có thể có nhiều vị trí: dưới nội mạc, trong cơ và dưới thanh mạc.
Giải phẫu bệnh dạ dày
Các tế bào nội tiết phân bố rải rác trong các tuyến ở những vùng khác nhau của dạ dày. Ngoài ra, các tế bào này nằm rải rác khắp ống tiêu hoá và nếu tính tổng số các tế bào này thì ống tiêu hoá là cơ quan nội tiết lớn nhất cơ thể.
Giải phẫu bệnh u mô đệm nội mạc tử cung
Đôi khi u hoá bọc, nhưng ít hoại tử xuất huyết. U thường nằm trong lớp cơ hay dưới thanh mạc nhưng không xâm nhập.
Giải phẫu bệnh bệnh của tế bào nuôi
Về hoá mô miễn dịch, các tế bào nuôi không tiết ra nội tiết tố, các nội tiết tố như HCG và HPL
Giải phẫu bệnh khối u
U là khối mô tân tạo. Các thuật ngữ lành tính và ác tính tương quan với quá trình tân sinh. U lành tính phát triển khu trú, tại chỗ; u ác tính xâm nhập mô, và có thể di căn đến cơ quan xa.
Giải phẫu bệnh u mầm bào buồng trứng
U mầm bào là nhóm u buồng trứng lớn thứ hai sau u thượng mô thông thường, với xuất độ là 20% u buồng trứng. Tỷ lệ này là tỷ lệ bên Âu Châu và Châu Mỹ, còn bên Á Châu và Phi Châu, nơi xuất độ u thượng mô thấp hơn.
Giải phẫu bệnh viêm giang mai
Xoắn khuẩn chưa hề được nuôi cấy trong môi trường nhân tạo và rất yếu, dễ bị hủy hoại do hóa chất, hoặc do sức nóng, khô hanh, nhưng chịu được lạnh.
Giải phẫu bệnh u và giả u ruột
Thay vì gây viêm ruột thừa thì lại làm cho các chất nhầy tiết ra bị ứ đọng lại trong lòng ruột tạo nên bọc nhầy.
Giải phẫu bệnh bệnh hệ thần kinh
Hệ thần kinh và những thành phần phụ của hệ thần kinh gồm nhiều loại tế bào hoặc mô cơ bản. Mặc dù những biến đổi bệnh lý của hệ thần kinh không khác biệt với nhiều vùng trong cơ thể.
Giải phẫu bệnh u đại tràng
Bệnh có ở mọi tuổi, nhưng thường được chẩn đoán ở bệnh nhân 60 đến 70 tuổi, nhân lúc bệnh nhân được khám bằng soi đại tràng sigma
Giải phẫu bệnh của gan
Các enzym SGOT (serum glutamic oxaloacetic transferase) và SGPT (serum glutamic pyruvic transferase) do gan tổng hợp
Giải phẫu bệnh bệnh tim và mạch máu
Bình thường, vào tuần thứ 4 của bào thai, 2 ống phôi tim mạch hòa nhập vào thành một với 4 buồng: xoang tĩnh mạch, tâm nhĩ, tâm thất và bầu thất.