- Trang chủ
- Sách y học
- Bài giảng giải phẫu bệnh
- Đại cương giải phẫu bệnh bệnh xương
Đại cương giải phẫu bệnh bệnh xương
Xương xốp hay xương bè hoặc xương tủy giúp cho chức năng chuyển hóa chất khoáng. Xương xốp ở đầu xương còn có nhiệm vụ truyền lực đến vỏ thân xương.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Bệnh của hệ xương tương đối hay gặp ở nước ta, nhất là viêm xương-tủy. Các u xương và bệnh rối loạn chuyển hóa hiếm gặp. Để hiểu rõ bệnh lý xương, cần có một số kiến thức cơ bản về quá trình hình thành, phát triển cũng như cấu trúc mô học của bộ xương.
Chức năng
Xương có 3 chức năng chính:
(1) Cơ học: xương là nơi bám của các cơ giúp cơ thể chuyển động.
(2) Bảo vệ: là bộ khung để bảo vệ não, tủy sống, cơ quan nội tạng và tủy xương.
(3) Chuyển hóa: xương là nơi dự trữ của một số ion đặc biệt là canxi và phốt pho.
Xương được chia làm 2 nhóm chính:
(1) Xương dẹt của nhóm xương trục cơ thể như xương sọ, mặt, vai, đòn, ức, sống, chậu.
(2) Xương ống của tứ chi.
Mô học
Về hình thái, xương gồm 2 loại:
(1) Xương vỏ (hay xương đặc) chiếm 80% khối luợng xương, tạo nên sự vững chắc của xương.
(2) Xương xốp hay xương bè hoặc xương tủy giúp cho chức năng chuyển hóa chất khoáng. Xương xốp ở đầu xương còn có nhiệm vụ truyền lực đến vỏ thân xương.
Xương có 3 loại tế bào:
(1) Nguyên bào xương: có nguồn gốc từ tế bào nguồn tạo xương, tổng hợp chất căn bản xương là chất sợi keo típ I còn gọi là chất dạng xương.
(2) Tế bào xương: là các nguyên bào xương đã “già”, bị bao quanh bởi chất căn bản do chúng tạo ra.
(3) Đại bào hủy xương: thuộc hệ thống thực bào, có từ 2-6 nhân, nằm trong ổ khuyết Howship do chúng hấp thụ xương. Đại bào hủy xương nhờ các men tiêu đạm và làm phân hủy các tinh thể hydroxyapatite.
Quá trình tạo xương gồm 2 giai đoạn:
(1) Nguyên bào xương tạo chất dạng xương, sinh tố C cần cho quá trình này.
(2) Chất dạng xương sau đó ngấm chất khoáng là các tinh thể hydroxyapatite Ca10(PO4)6(OH)2 và các hợp chất canxi [Ca (PO4)2 + CaCO3] tạo thành chất xương. Quá trình này cần đến sinh tố D, các glycoprotein, các hormon và yếu tố tăng trưởng và nhờ sự phân giải của proteoglycan có trong chất dạng xương...
Hình thành và phát triển bộ xương
Các mô của xương đều xuất nguồn từ tế bào trung mô, chúng biệt hóa để tạo nên mô xương, mô sụn, mô sợi, mạch máu và mô tủy...
Phôi có 3 lá, lá phôi giữa (LPG) được thành lập từ ngày thứ 15 từ một số tế bào của lá phôi ngoài và lá phôi trong họp nên. Các tế bào LPG tăng sản, di chuyển gọi là tế bào trung mô và tạo thành 3 phần:
(1) LPG trục: gồm nhiều đơn vị gọi là “đốt thân”, biệt hóa tạo nên 3 lớp: "đốt xương” bao quanh tủy sống và nguyên sống tạo thành đốt sống, "đốt cơ” tạo nên cơ vân (cơ liên sườn, cơ lưng, cơ bụng) và “đốt da” tạo thành mô liên kết của lớp bì da tương ứng.
(2) LPG ngoại biên: hình thành nên lá thành, lá tạng của màng tim, màng phổi, màng bụng. Lá thành của LPG ngoại biên có thể tạo nên xương, khớp và cơ của tứ chi. Lá tạng còn tạo nên cơ tim và cơ trơn của ống tiêu hóa.
(3) LPG trung gian: tạo bộ phận tiết niệu, sinh dục.
Các xương được hình thành từ tuần lễ thứ tư và theo 2 cách:
(1) Sự tạo xương màng hoặc trực tiếp: hình thành một số xương dẹt gồm xương sọ-mặt, xương hàm và xương đòn. Các tế bào trung mô xếp từng lớp, biệt hóa trực tiếp thành nguyên bào xương tạo nên các bè xương nối tiếp nhau, xếp chồng lên nhau hình thành loại xương vỏ đặc với các ống Havers chứa mạch máu và rất ít tủy. Các đại bào hủy xương ở mặt trong giúp cho hộp sọ ngày càng rộng tạo điều kiện cho não bộ phát triển. Sự tạo xương trực tiếp ở màng xương giúp cho xương dày lên. Quá trình này chủ yếu xảy ra trong bào thai và những năm đầu của cuộc sống.
(2) Sự tạo xương nội sụn (hay gián tiếp qua trung gian mô sụn): hình thành nên các xương ống của tứ chi (xương dài) và các xương sống, xương bả vai, xương chậu, xương sườn.
Ở tuần lễ thứ tư của phôi, các “nụ chồi của chi” xuất hiện. Vào tuần thứ 8, các tế bào trung mô biệt hóa thành nguyên bào sụn sắp xếp thành mẫu hình xương tương lai. Ở đoạn giữa (phần thân xương), các nguyên bào sụn tăng trưởng, nhân đôi, tiết chất sụn, phì đại, ngấm canxi rồi thoái hóa và bị xâm nhập bởi mao mạch. Sau đó, các nguyên bào xương đến tiết ra chất dạng xương trên khung mô sụn đã thoái hóa. Đây là điểm tạo xương sơ cấp.
Các đại bào hủy xương hấp thụ xương từ bên trong giúp hình thành và làm rộng ống tủy tạo điều kiện cho tế bào tủy xương phát triển.
Màng xương bên ngoài giúp cho xương lớn thêm về chiều ngang (đường kính) theo kiểu tạo xương màng.
Ở trẻ sơ sinh:
Phần thân xương gồm tủy tạo máu ở trong ống tủy, vỏ xương đặc có lớp màng trong xương, bên ngoài phủ bởi màng xương dày.
Phần đầu xương gồm toàn mô sụn, về sau xuất hiện các nhân thứ cấp tạo xương xốp rất giàu nguyên bào xương và tủy. Phần sụn tiếp giáp với khớp trở thành sụn khớp gồm 3 lớp.
Phần đầu thân xương (hành xương) gồm đĩa sụn tiếp hợp phân cách đầu xương với thân xương. Sụn tiếp hợp giúp cho xương tăng trưởng về chiều dài, nhất là ở lứa tuổi dậy thì. Vùng đầu thân xương “gần gối-xa khuỷu” chịu trách nhiệm phát triển từ 75-80 % chiều dài của xương tương ứng. Do hoạt động sinh sản tế bào mạnh lại giàu mạch máu thông nối nhau, máu chảy chậm nên vùng đầu thân xương (đặc biệt ở gần gối-xa khuỷu) dễ bị rối loạn tăng trưởng, viêm nhiễm và phát sinh u.
Sự tạo xương nội sụn xảy ra một phần trong thai kỳ (tạo nên thân xương dài... ) và chủ yếu là sau khi sinh nhất là ở lứa tuổi dậy thì.
Như vậy, quá trình tạo xương rất động, không tách rời với quá trình hủy xương và gồm nhiều loại tế bào tham gia. Các xương được hình thành gọi là quá trình “tạo mẫu xương” (modeling). Hoạt động này tiếp diễn liên tục trong suốt cuộc đời người và gắn liền với quá trình “tái tạo mẫu xương” (remodeling), theo đó các nguyên bào xương được thu hút tới các ổ khuyết tạo ra bởi các đại bào hủy xương rồi tiết ra chất dạng xương phục hồi lại nguyên trạng bề mặt của xương. Xương, vì vậy, luôn luôn được “đổi mới”! Ở trẻ em, quá trình tạo xương trội hơn giúp cho cơ thể phát triển. Đến tuổi trưởng thành, xương không lớn thêm do sự quân bình giữa 2 quá trình tạo và hủy xương. Về già, xương bị loãng, dòn, dễ gãy do quá trình tạo xương giảm nhiều hơn. Khi bị suy yếu hoặc tăng mạnh 1 trong 2 quá trình này (do bệnh di truyền, thiếu en-zim, rối loạn nội tiết tố... ) thì sự phát triển của xương bị lệch lạc với những biểu hiện bệnh lý đa dạng.
Mô tủy xương cũng thay đổi, có chức năng tạo máu khi ở thời kỳ phôi thai và trẻ nhỏ; ở tuổi trưởng thành chỉ có xương xốp còn tạo máu, tủy xương dài bị thoái hóa mỡ; về già tủy xương bị xơ hóa.
Bài viết cùng chuyên mục
Giải phẫu bệnh u mầm bào buồng trứng
U mầm bào là nhóm u buồng trứng lớn thứ hai sau u thượng mô thông thường, với xuất độ là 20% u buồng trứng. Tỷ lệ này là tỷ lệ bên Âu Châu và Châu Mỹ, còn bên Á Châu và Phi Châu, nơi xuất độ u thượng mô thấp hơn.
Giải phẫu bệnh sốc
Sốc là tình trạng suy giảm tuần hoàn cấp làm lưu lượng máu ở mô thiếu hụt, dẫn đến vô oxy tại tế bào. Sốc là một biến chứng tuần hoàn máu có nhiều biểu hiện đa dạng gây những rối loạn mô khác nhau.
Lợi hại và phân loại viêm theo giải phẫu bệnh
Do giãn mạch tạm thời (động và tĩnh mạch), có thể biểu hiện dưới dạng hồng ban do nắng, ngoại ban (exanthema), tổn thương do nhiễm khuẩn.
Giải phẫu bệnh bệnh hốc miệng
Tác nhân gây bệnh được truyền từ người này sang người khác, thường do hôn nhau. Hơn ba phần tư dân số bị nhiễm, trong khoảng nữa cuộc đời.
Giải phẫu bệnh u mô đệm nội mạc tử cung
Đôi khi u hoá bọc, nhưng ít hoại tử xuất huyết. U thường nằm trong lớp cơ hay dưới thanh mạc nhưng không xâm nhập.
Giải phẫu bệnh tổn thương huyết tắc
Huyết tắc là kết quả của quá trình di chuyển một vật lạ trong dòng huyết lưu, rồi ngưng chuyển để gây lấp kín lòng mạch (embolein: đẩy vào) taọ nên cục huyết tắc.
Giải phẫu bệnh phù
Phù là sự ứ đọng bất thường các dịch đó trong ở mô đệm kẽ, còn ứ đọng dịch ở trong tế bào là hiện tượng thũng đồng thẩm thấu. Hình thái đại thể và vi thể của phù thường khác biệt tùy thuộc vị trí và cấu trúc của tạng bị thương tổn.
Giải phẫu bệnh viêm đại tràng
Như đã đề cập trong phần bệnh Crohn của bài trước, bệnh viêm loét đại tràng vô căn có một số đặc điểm chung với bệnh Crohn
Giải phẫu bệnh của gan
Các enzym SGOT (serum glutamic oxaloacetic transferase) và SGPT (serum glutamic pyruvic transferase) do gan tổng hợp
Giải phẫu bệnh của ruột thừa
Bệnh có thể có ở mọi tuổi nhưng xuất độ bệnh cao nhất xảy ra ở thanh niên và người trẻ. Nam giới có xuất độ bệnh cao gấp 5 lần nữ giới.
Giải phẫu bệnh viêm xương
Bệnh viêm mủ xương-tủy có thể chia làm 3 giai đoạn diễn tiến liên tục và chuyển đổi từ từ không có ranh giới rõ rệt: cấp, bán cấp và mạn tính.
Giải phẫu bệnh dị tật bẩm sinh dạ dày
Yếu hoặc thiếu hoàn toàn hay thiếu một phần cơ hoành, thường là bên trái, có thể gây ra thoát vị các bộ phận trong bụng vào lồng ngực. Dị tật này khác với thoát vị hoành (đã đề cập trong bài bệnh của thực quản).
Giải phẫu bệnh khối u
U là khối mô tân tạo. Các thuật ngữ lành tính và ác tính tương quan với quá trình tân sinh. U lành tính phát triển khu trú, tại chỗ; u ác tính xâm nhập mô, và có thể di căn đến cơ quan xa.
Giải phẫu bệnh u mô đệm dây giới bào (u mô đệm dục) buồng trứng
Kích thước u cũng quan trọng, theo Fox, u có đường kính dưới 5cm sống 100% sau 10 năm, nếu u từ 6-15cm, tỷ lệ sống thêm 10 năm là 37%.
Giải phẫu bệnh ung thư buồng trứng do di căn
U có thể có các bọc lót bởi tế bào chế tiết nhầy, có chứa mô hoại tử và chất nhầy nhiều hơn carcinom tuyến bọc dịch nhầy của buồng trứng.
Giải phẫu bệnh ruột non
Lớp thượng mô lót bởi các hốc khác với lớp thượng mô của nhung mao. Có 4 loại tế bào thượng mô của hốc: tế bào Paneth, tế bào không biệt hoá, tế bào đài và tế bào nội tiết.
Giải phẫu bệnh đại tràng
Trên thực tế lâm sàng, bệnh của đại tràng chiếm tỷ lệ khá cao trong các bệnh được phẫu trị. Ung thư đại tràng là nguyên nhân đứng hàng thứ 2 gây tử vong ở người lớn.
Giải phẫu bệnh u lành gan và đường mật
Dạng tổn thương một cục đơn độc cũng có tên là tăng sản cục khu trú, có lẽ là do khiếm khuyết phát triển dạng hamartom, nữ giới mắc bệnh nhiều hơn nam giới.
Giải phẫu bệnh viêm cổ tử cung
Viêm do vi khuẩn quan trọng vì có thể đi kèm với nhiễm khuẩn lên nội mạc tử cung, vòi trứng và phúc mạc chậu, hoặc lây qua nhau và thai hay bé sơ sinh.
Giải phẫu bệnh tuyến tiền liệt
Tổn thương viêm cấp có thể chỉ là các ổ áp xe nhỏ, nhiều chỗ, có thể là vùng hoại tử do khu trú, hoặc là tình trạng hoá mủ, sung huyết
Giải phẫu bệnh bệnh hệ thần kinh
Hệ thần kinh và những thành phần phụ của hệ thần kinh gồm nhiều loại tế bào hoặc mô cơ bản. Mặc dù những biến đổi bệnh lý của hệ thần kinh không khác biệt với nhiều vùng trong cơ thể.
Giải phẫu bệnh u đường mật ngoài gan
Một số các tác nhân được xem như có liên quan đến sự hình thành loại ung thư này. Quan trọng nhất là sỏi mật và viêm, có trong 75-90% các carcinom túi mật.
Giải phẫu bệnh phần mềm
Việc chẩn đoán các u hiếm cần rất thận trọng và được hội chẩn liên khoa giải phẫu bệnh-lâm sàng-hình ảnh học y khoa.
Giải phẫu bệnh ung thư
Các ung thư thường gặp ở nam giới là ung thư của tuyến tiền liệt, phổi, và đại tràng. Ở nữ giới, các ung thư thường gặp là cổ tử cung, vú, phổi, và đại tràng.
Giải phẫu bệnh viêm tử cung
Ổ lao nguyên phát ở phổi hay ở ống tiêu hoá. Bệnh thường gặp ở tuổi sinh đẻ và thường kèm vô sinh.