Bài giảng bệnh Celiac

2013-08-17 02:34 PM

Không có triệu chứng hay dấu hiệu đặc biệt nào cho bệnh celiac; hầu hết người bệnh bị tiêu chảy, đau bụng, đầy hơi và xuống cân. Đôi khi họ không có triệu chứng rõ rệt nào.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Bệnh celiac là một chứng dị ứng khá trầm trọng, hệ đề kháng của cơ thể chống lại chất đạm (protein) trong lúa mì và những ngũ cốc khác. Số người được chẩn bệnh gia tăng gấp 4 lần so với 5 thập niên trước. Tỷ lệ số người bị chứng celiac là 1 trong mỗi 100 người.

Ta chưa biết tại sao tỷ lệ người bị celiac gia tăng, và các chuyên gia ước đoán rằng có thể do cách trồng trọt lúa mì, lúa mạch, cách biến chế hoặc do việc sử dụng các nguyên liệu này nhiều hơn trong các loại thức ăn.

Bệnh celiac dễ bị lầm lẫn với chứng "irritable bowel syndrome" hoặc những chứng bệnh khác. Các chuyên gia về thống kê cho rằng cứ mỗi người được chẩn bệnh là 30 người khác bị bệnh nhưng chưa được chẩn bệnh. Sau khi chẩn bệnh, việc ngưng ăn uống các món ăn chứa gluten là cách chữa trị duy nhất và hiệu quả nhất.

Người bị bệnh celiac không thể ăn gluten, chất đạm tìm thấy trong lúa mì (wheat), lúa mạch (rye) hoặc barley. Điều này khiến việc ăn uống trở nên vô cùng khó khăn vì gluten hiện diện trong nhiều thứ thức ăn và thuốc men. Khi ăn gluten, hệ đề kháng tạo kháng thể hủy diệt màng ruột non và cơ thể không còn hấp thụ chất dinh dưỡng.

Khi cơ thể không hấp thụ chất dinh dưỡng, việc suy dinh dưỡng xảy ra dẫn đến thiếu máu (anemia), thiếu sinh tố cho não bộ, bắp thịt, rụng răng và loãng xương.

Triệu chứng

Không có triệu chứng hay dấu hiệu đặc biệt nào cho bệnh celiac; hầu hết người bệnh bị tiêu chảy, đau bụng, đầy hơi và xuống cân. Đôi khi họ không có triệu chứng rõ rệt nào. Bệnh celiac có thể gây các triệu chứng tương tự irritable bowel syndrome, lở bao tử, bệnh Crohn, nhiễm ký sinh trùng, thiếu máu, bệnh ngoài da và bệnh thần kinh.

Bệnh celiac cũng có thể xuất hiện với những triệu chứng:

Khó chịu, bẳn gắt hoặc trầm cảm.

Thiếu máu.

Ăn khó tiêu.

Đau khớp xương.

Bắp thịt bị co rút.

Nổi mề đay trên da.

Vết lở trong miệng.

Rụng răng hoặc loãng xương.

Cảm giác kim châm hoặc kiến bò trên cẳng chân, bàn chân (neuropathy).

Triệu chứng về suy dinh dưỡng cũng có thể xuất hiện:

Giảm cân.

Tiêu chảy triền miên.

Đau bụng, đầy hơi.

Mệt mỏi, dễ mất sức.

Phân có mùi hôi thối khác thường hoặc màu xám xịt có thể lẫn với mỡ.

Trẻ em chậm lớn.

Loãng xương (Osteoporosis).

Thiếu máu (Anemia).

Những chứng bệnh liên quan đến gluten:

Dermatitis herpetiformis là một chứng bệnh ngoài da, ngứa ngáy, da nổi phồng mụn nước do dị ứng gluten. Loại mề đay này nổi trên da khuỷu tay (cùi chỏ), đầu gối và mông. Chứng Dermatitis herpetiformis có thể gây hư hoại màng ruột non tựa như chứng celiac dù không gây các triệu chứng về tiêu hóa. Chứng bệnh này cũng cần chữa trị bằng cách ngừng ăn uống các món chứa gluten.

Khi nào thì cần đi khám ?

Nếu gặp một hoặc nhiều triệu chứng kể trên, hãy đi khám bệnh. Nếu thân nhân bị bệnh celiac, cũng nên nên đi khám bệnh để thử nghiệm.

Cần đưa đi khám bệnh khi con trẻ xanh xao, khó chịu, luôn khóc lè nhè và chậm lớn, cả đứa trẻ bụng ỏng, mông phẳng lì và phân có mùi hôi thối khác lạ.

Chứng celiac còn được gọi là celiac sprue, nontropical sprue và gluten-sensitive enteropathy. Bình thường, màng ruột non có những lông nhỏ, trông từa tựa như sợi len trên mặt tấm thảm, gọi là villi. Villi hấp thụ sinh tố, khoáng chất và những thứ dinh dưỡng từ thực phẩm. Bệnh celiac hủy hoại villi. Thiếu villi, màng ruột non nhẵn lì và cơ thể không còn hấp thụ được chất bổ dưỡng từ thức ăn. Chất béo, chất đạm, sinh tố, khoáng chất theo phân ra ngoài.

Ta chưa biết nguyên nhân gây bệnh celiac, nhưng thường là di truyền. Khi 1 người trong gia đình (trực hệ) bị bệnh, có thể là những người khác cũng bị bệnh celiac. Trong nhiều trường hợp, căn bệnh xuất hiện sau lần thương tổn như nhiễm trùng, bị thương tích, thai nghén, bị áp lực tâm thần hoặc giải phẫu.
Dù celiac có thể xuất hiện trong mọi người nhưng thường thấy ở những người bị các chứng bệnh như:

Tiểu đường, loại I (Type 1 diabetes).

Tuyến giáp trạng tự đề kháng (Autoimmune thyroid disease).

Hội chứng Down.

Viêm ruột già, loại Microscopic colitis, nhất là loại collagenous colitis
Các yếu tố gia tăng nguy cơ bị celiac: Một số di thể như HLA-DQ2 và DQ8 liên quan đến chứng bệnh này nhưng ta chưa rõ ảnh hưởng ra sao.

Biến chứng

Khi không chữa trị, bệnh celiac có thể dẫn đến nhiều biến chứng như:

Suy dinh dưỡng (Malnutrition): Bệnh celiac dẫn đến việc không hấp thụ thực phẩm và gây suy dinh dưỡng bất kể đã ăn uống đầy đủ. Chất bổ dưỡng theo phân ra ngoài thay vì hấp thụ vào máu nuôi cơ thể, do đó thân thể sẽ thiếu sinh tố và khaon1g chất như B-12, D, folate và sắt (iron), tạo ra thiếu máu (anemia) và xuống cân. Suy dinh dưỡng có thể gây chậm lớn và ngừng phát triển trong trẻ em.

Mất calcium và giảm độ đặc của xương (bone density): Chất béo thoát đi theo phân nên cơ thể mất dần calcium và vitamin D đẫn đến chứng osteomalacia, xương "mềm" và còn có tên là bệnh ricket trong trẻ em, và chứng loãng xương (osteoporosis), xương mỏng , dễ gãy. Ngoài ra, việc thiếu hấp thụ calcium dẫn đến sạn thận (oxalate stone).

Lactose intolerance: Màng ruột non bị hư hoại do chứng celiac có thể gây đau bụng và tiêu chảy khi ăn uống các thức ăn khác như chất lactose từ sữa. Nếu gặp trường hợp này ngoài việc ngưng ăn uống chất gluten, cũng cần loại bỏ sữa trong thực phẩm. Khi ruột non lành lặn trở lại, có thể bắt đầu ăn uống sữa.

Ung thư: Người bị chứng celiac và tiếp tục ăn gluten có nguy cơ bị ung thư cao hơn, nhất là loại ung thư ruột.

Biến chứng về thần kinh hệ: Bệnh celiac có thể liên quan đến kinh phong và chứng tê bại thần kinh ngoại biên (peripheral neuropathy).

Chuẩn bị cho việc khám bệnh

Bác sĩ gia đình có thể giới thiệu bạn đến một chuyên viên về bệnh tiêu hóa (gastroenterologist) để thử nghiệm và chữa trị. Hãy sửa soạn những câu hỏi, những điều cần thiết về việc chẩn bệnh, chữa trị trước khi đi khám bệnh:

Hỏi về những điều cần làm để sửa soạn cho việc thử nghiệm: Đừng tự kiêng khem trước khi khám bệnh vì các dấu hiệu có thể biến mất khiến việc chẩn đoán trở nên khó khăn.

Ghi chép các chi tiết về triệu chứng của mình, bất kể các triệu chứng kia có liên quan đến tiêu hóa hay không.

Ghi chép những dữ kiện cá nhân kể cả áp lực, các thay đổi trong đời sống.

Lập danh sách các món thuốc đang dùng kể cả sinh tố, thực phẩm phụ, các món mua tự do không cần toa bác sĩ.

Ghi chép những câu muốn hỏi.

Một số điều nên hỏi:

Nguyên nhân nào gây các triệu chứng tôi gặp?

Có nguyên nhân nào khác không?

Tôi sẽ cần loại thử nghiệm nào? Tôi có cần sửa soạn gì cho các loại thử nghiệm này không?

Thử máu là đủ hay tôi sẽ cần đi nội soi?

Căn bệnh của tôi cấp thời hay sẽ mãn tính?

Bệnh celiac chữa trị ra sao?

Có cách chữa trị nào cho căn bệnh này không?

Làm thế nào để tôi biết thức ăn nào chứa gluten? Tôi có cần gặp chuyên viên về dinh dưỡng không?

Tôi có thể ăn loại thực phẩm nào?

Có sách vở nào để tôi đọc và tìm hiểu thêm về bệnh trạng?

Nếu tôi bị bệnh celiac, có cần thử nghiệm để tìm tiểu đường, nhiễu tuyến giáp trạng hay viêm ruột già không?

Bác sĩ sẽ muốn biết:

Khi lập bệnh sử, bác sĩ có thể hỏi những câu sau đây:

Triệu chứng bắt đầu từ khi nào?

Các triệu chứng này xuất hiện liên tục hay thỉnh thoảng, lúc có lúc không?

Triệu chứng nặng / nhẹ ra sao?

Có thể làm gì để giảm triệu chứng kể trên? Tiết giảm thức ăn nào thì cảm thấy dễ chịu hơn?

Khi làm gì thì triệu chứng nặng hơn? Loại thức ăn nào khiến triệu chứng gia tăng?

Trong gia đình có ai bị bệnh celiac không?

Có bị chứng bệnh tự đề kháng nào không (autoimmune disease)?

Trong gia đình có ai bị bệnh tự đề kháng không?

Đã chịu giải phẫu ở bụng bao giờ chưa?

Đã bị chứng bệnh liên quan đến tụy tạng bao giờ chưa, chẳng hạn như viêm tụy tạng?

Đã bị chứng da nổi ngứa với những bong bóng bao giờ chưa?

Đã bị thiếu máu bao giờ chưa và cần dùng thêm sắt?

Xét nghiệm và chẩn đoán

Hiện nay ta có một số thử nghiệm máu giúp chẩn đoán bệnh celiac ở những người bị bệnh nhẹ (triệu chứng nhẹ) và cả những người chưa có triệu chứng nào.

Người bị celiac có một số kháng thể trong máu như anti-gliadin, anti-endomysium và anti-tissue transglutaminase. Kháng thể (antibody) là một loại protein đặc biệt do hệ đề kháng của cơ thể tạo thành để hủy diệt "vật lạ" xâm nhập vào cơ thể. Trong cơ thể người bị celiac, hệ đề kháng xem gluten là "vật lạ" nên tạo kháng thể để chống lại gluten.

Thử máu để tìm kiếm và đo lường mức kháng thể kể trên và kết quả giúp bác sĩ chẩn đoán bệnh tật. Để khẳng định căn bệnh, bác sĩ có thể cần làm nội soi (endoscopy) và trích mô, xem xét mức hư hại của villi trong màng ruột non.

Việc thử dùng cách ăn uống tránh gluten có thể giúp xác định căn bệnh; tuy nhiên không nên thử cách ăn uống này trước khi đi khám bệnh. Ngưng dùng thực phẩm chứa gluten có thể thay đổi kết quả thử máu và sinh thiết; do đó, bác sĩ khó lòng chẩn bệnh một cách chính xác.

Trị liệu

Bệnh celiac không có cách chữa trị nào hữu hiệu hơn việc ngưng ăn uống thực phẩm chứa gluten. Khi ngưng gluten, phản ứng viêm tại màng ruột non sẽ ngưng, và trong vòng nhiều tuần lễ, triệu chứng sẽ tiết giảm và ngừng hẳn. Nếu bị suy dinh dưỡng, bạn sẽ cần dùng thêm sinh tố và khoáng chất theo lời chỉ dẫn của bác sĩ và chuyên viên dinh dưỡng. Màng ruột non sẽ hồi phục, villi sẽ mọc trở lại sau nhiều tháng. Người trẻ tuổi phục hồi nhanh hơn so với người lớn tuổi (ở tuổi vàng, sự phục hồi có thể cần 2 - 3 năm).

Nguyên tắc chính là tránh gluten

Để duy trì sức khỏe và ngăn biến chứng, bạn cần tránh hẳn gluten. Một lượng gluten cũng đủ tạo triệu chứng và biến chứng; do đó tránh tất cả thực phẩm chứa hoặc chế tạo bởi hạt ngũ cốc như wheat, barley và rye. Tránh tất cả mọi loại wheat kể cả farina, graham flour, semolina và durum, barley, rye, bulgur, Kamut, kasha, matzo meal, spelt và triticale.

Amaranth, buckwheat và quinoa là những món không chứa gluten, nhưng có thể bị tạp nhiễm bởi các loại hạt khác khi thu hái hoặc chế biến tại xưởng máy. Vì vậy, nên đọc nhãn hiệu có nhan đề rõ ràng như "gluten-free" hoặc "manufactured in a gluten-free facility". Việc tạp nhiễm có thể xảy ra trong bếp nhà khi dùng chén bát vật đựng nên cần cẩn thận. Oat không chứa gluten nhưng sản phẩm chế biến từ oat thường lẫn nhiều wheat, do đó cần tránh cả oat.

Bạn có thể sẽ cần thảo luận với chuyên viên dinh dưỡng về cách ăn uống.

Những món thức ăn không chứa gluten bao gồm:

Sữa và sản phầm chế biến từ sữa.

Thịt, cá (không bọc bột hoặc tẩm sốt).

Trái cây.

Rau.

Gạo.

Khoai.

Bột (từ) gạo, đậu nành, bắp, khoai.

Hầu hết thực phẩm chế biến từ hạt chứa gluten. Tránh những món này trừ khi nhãn hiệu đề rõ "gluten-free" hoặc "made with corn, rice, soy or other gluten-free grain" trên các món:

Bánh mì.

Cereals.

Cracker.

Pasta.

Bánh ngọt.

Sốt.

Ngoài ra, hạt chứa gluten có thể thêm vào gia vị như "malt flavoring", "modified food starch"... Những phụ chất chứa gluten có thể được dùng trong thuốc men, sinh tố, son môi, tem (bưu chính)...

Nói chung, chữa trị bệnh celiac hoàn toàn từ cách sống, ăn uống. Do đó, thận trọng trong việc đọc nhãn hiệu tất cả mọi sản phẩm sử dụng nhất là thức ăn. Đừng dựa vào thói quen, đọc nhãn hiệu mỗi lần dùng vì hãng sản xuất có thể thay đổi nguyên liệu bất cứ lúc nào. Khi cần, gọi điện thoại cho hãng sản xuất để tìm hiểu cặn kẽ.

Bài viết cùng chuyên mục

Bài giảng ấu trùng sán lợn dưới da (Systicercose sous cutanée)

Trên cơ sở dựa vào bệnh sán dây lợn ở đường ruột (xét nghiệm phân để tìm đốt sán và trứng sán), có biểu hiện lâm sàng u nang sán ở dưới da.

Bài giảng vật lý trị liệu bệnh da liễu

Siêu âm là các dao động âm thanh, dao động đàn hồi của vật chất. Tác dụng của siêu âm lên cơ thể gây giãn mao mạch làm tăng tuần hoàn tại chỗ, giảm triệu chứng co thắt, tăng dinh dưỡng.

Các phương pháp xét nghiệm nấm gây bệnh da liễu (Mycosis diagnosis)

Để làm tiêu bản xét nghiệm được trong, giữ tiêu bản được lâu dài phục vụ xét nghiệm và huấn luyện thì dung dịch KOH có thêm glycerin theo công thức sau hoặc dung dịch DMSO.

Bài giảng bệnh ghẻ (scabies, gale)

Tác nhân gây bệnh do ký sinh trùng ghẻ Sarcoptes scabiei hominis, Bệnh do ghẻ cái gây nên là chủ yếu, ghẻ đực không gây bệnh vì chết sau khi giao hợp.

Bài giảng chứng mặt đỏ (rosacea)

Bệnh kéo dài nhiều tháng, nhiều năm có thể kèm theo tăng sản tuyễn bã và phù bạch mạch làm biến dạng mũi, trán, quanh mắt, tai, cằm. Có khi bị cả ở vùng cổ, ngực, liên bả, lưng, da đầu.

Tổn thương cơ bản bệnh da liễu (fundamental lesions)

Nguyên nhân gây ra dát viêm, ban đỏ (erythema) rất khác nhau, ví dụ ban đỏ trong dị ứng thuốc, đào ban (roseole) trong giang mai II cũng là một loại dát viêm.

Bài giảng bệnh phong, hủi (leprosy)

Trực khuẩn hình gậy, kháng cồn, kháng toan về phương diện nhuộm, kích thước 1,5 đến 6 micron, nhuộm bắt màu đỏ tươi theo phương pháp Ziehl Neelsen.

Bài giảng bệnh Paget da liễu

Lúc đầu tổn thương là một vài vảy tiết nhỏ hoặc tổ chức sùi sừng hoá ở quanh vú. Vảy tiết gắn chặt khô hoặc hơi ướt, ngứa ít hoặc nhiều, bóc lớp này lớp khác lại đùn lên.

Bài giảng viêm da mủ (Pyodermites)

Trong những điều kiện thuận lợi như cơ thể suy yếu, vệ sinh kém, ngứa gãi, sây xát da.…tạp khuẩn trên da tăng sinh, tăng độc tố gây nên bệnh ngoài da gọi chung là viêm da mủ. 

Sẩn ngứa do côn trùng cắn hoặc chích

Ngay sau khi bị đốt sẩn tịt giống nốt muồĩ đốt đường kính 2, 3 mm hoặc 1, 2 cm cao trên mặt da, đỏ ngứa nhiều, giữa có điểm rớm dịch trong, đầu khô đóng vảy mầu nâu.

Thuốc bôi ngoài da bệnh da liễu

Thuốc bôi ngoài da còn có tác dụng toàn thân, gây nên những biến đổi sinh học nhất định, do thuốc ngấm vào dịch lâm ba, vào máu.

Bài giảng bệnh nấm Sporotrichosis

Bệnh nhân thường gặp ở nam giới, khoẻ mạnh, dưới 30 tuổi, ít gặp ở trẻ em, hay gặp ở những người làm vườn, làm ruộng, thợ nề, trồng hoa hoặc bán hoa.

Bài giảng ban đỏ nhiễm sắc cố định tái phát trên da

Cơ chế bệnh sinh của ban đỏ nhiễm sắc cố định thuốc đáp ứng miễn dịch dị ứng týp III và IV và được xem như là do mẫn cảm, tái phát khi bệnh nhân dùng lại thứ thuốc đã dùng.

Bài giảng bệnh lao da

Đư¬ờng lymphô: trực khuẩn theo các khe gian bào và mạch lymphô đến trực tiếp vùng tổn thư¬ơng da, đường lan truyền này thường xẩy ra ở lao hạch.

Bài giảng bệnh zona thần kinh, giời leo (herpes zoster)

Trước khi tổn thương mọc 2, 3 ngày thường có cảm giác báo hiệu như: rát dấm dứt, đau vùng sắp mọc tổn thương kèm theo triệu chứng toàn thân ít.

Bài giảng bệnh than da liễu (anthrax)

Người mắc bệnh trong các trường hợp qua vết xây xát ở ngoài da do tiếp xúc với các chất thải của động vật ốm hoặc khi làm thịt các động vật chết vì bệnh than.

Thăm khám bệnh nhân da liễu

Khám từ ngọn chi đến gốc chi, từ vùng hở đến vùng kín hoặc khám lần lượt từ đầu đến chân để tránh bỏ sót thương tổn, sau đó khám kỹ các vùng tổn thương chính.

Bài giảng bệnh hạt cơm khô (verrucae)

Bệnh phát triển trên một số thể địa đặc biệt khi có những điều kiện thuận lợi, hay tái phát thường có liên quan tới suy giảm tế bào T hỗ trợ do suy giảm miễn dịch tế bào.

Yếu tố nguy cơ và phòng bệnh lây truyền qua đường tình dục, HIV, AIDS

Một số bệnh lây truyền qua đường tình dục như giang mai, nhiễm HIV AIDS thực chất là lây truyền trực tiếp qua đường máu, mà hoạt động tình dục chỉ là một cách để cho virus, vi khuẩn truyền từ máu người bệnh sang máu người lành.

Bài giảng xạm da (Melanodermies)

Xạm da lan toả toàn thân thường là hậu quả của một số bệnh nhiễm khuẩn, rối loạn chuyển hoá thuộc phạm vi bệnh học chung.

Bài giảng bệnh vẩy nến (Psoriasis)

Dưới tác động của các yếu tố gây bệnh (yếu tố khởi động, yếu tố môi trường) như stress, nhiễm khuẩn, chấn thương cơ học, vật lý, rối loạn nội tiết, các thuốc.

Bài giảng nấm Candidas

Triệu chứng chủ yếu là ngứa. Da âm hộ đỏ và nhẵn. Trong kẽ mép có bợt da (macẻation) trên phủ một chất như kem màu trắng. Bên dưới là tổn thương đỏ tươi hoặc đỏ sẫm.

Bài giảng viêm da cơ (Dermatomyosite)

Thường bắt đầu triệu chứng của toàn thân bằng sốt,sổ mũi thường xảy ra sau nhiễm trùng tại chỗ hoặc ở nữ giới sau khi đẻ bắt đầu bằng triệu chứng.

Bài giảng điều trị các bệnh lây truyền qua đường tình dục

Bệnh nhân đ¬ược điều trị cùng một lúc tất cả các tác nhân gây bệnh mà gây nên hội chứng mà bệnh nhân có.

Bài giảng bệnh Pemphigus

Bệnh tự miễn, có tự kháng thể IgG lưu hành trong máu chống lại bề mặt tế bào keratinoaftes, phá huỷ sự liên kết giữa các tế bào tạo lên phỏng nước trong lớp biểu bì.