Đặc điểm hệ thần kinh trẻ em

2014-11-16 08:33 AM

Não trẻ sơ sinh có trọng lượng tương đối lớn hơn so với người lớn (não trẻ sơ sinh nặng 370 - 390g, chiếm 12 - 13% trọng lượng cơ thể, trong khi não của người lớn nặng 1400g.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Đặc điểm giải phẫu và cấu tạo hệ thần kinh trẻ em

Não bộ

Ống thần kinh được hình thành từ ngày thứ 18 của phôi từ phần ngoại bì. Phần trên (đoạn đầu) của ống thần kinh được phát triển thành não, phần dưới thành tuỷ sống.

Từ đoạn đầu của ống thần kinh, não bộ đượ c hình thành và trải qua 3 giai đoạn, mỗi giai đoạn hình thành 1 túi não, từ các túi não sẽ hình thành nên các bộ phân của não:

Túi não sau tạo nên hành não, cầu não, tiểu não và não thất IV.

Túi não giữa tạo nên cuống đại não, củ não sinh tư và cống Silvius.

Túi trước tạo ra 2 bán cầu đại não, não thất bên, não thất III, đổi thị, vùng dưới đổi và tuyến yên.

Võ não bắt đầu phát triển từ tháng thứ 3 của phôi, tiếp tục phát triển cho đến lúc trẻ chào đời và các chức năng cơ bản được biệt hoá cho t ới 8 tuổi.

Não trẻ sơ sinh có trọng lượng tương đối lớn hơn so với người lớn (não trẻ sơ sinh nặng 370 - 390g, chiếm 12 - 13% trọng lượng cơ thể, trong khi não của người lớn nặng 1400g, chiếm 2,3 - 2,8 % trọng lượng cơ thể). Não trẻ em phát triển nhanh trong năm đầu, lúc 1 tuổi trọng lượng não tăng gấp đôi, sau 9 tuổi trọng lượng não tăng không đáng kể.

Bề mặt não trẻ sơ sinh có đầy đủ các rãnh thuỳ như người lớn, nhưng các rãnh còn nông hơn. Về sau, sự phát triển mạnh của vỏ não đã làm cho các rãnh ngày một sâu hơn.

Khi đứa trẻ được sinh ra, hệ thần kinh là những bộ phân phát triển ít nhất. Não chưa trưởng thành vì các sợi trục chưa được myelin hoá. Myelin là chất béo bao bọc xung quanh các dây thần kinh. Ngoài tác dụng bảo vệ không cho các xung động thần kinh lan toả sang các sợi thần kinh khác (như là vỏ cách điện), vỏ myelin còn có tác dụng duy trì tốc độ dẫn truyền điện thế hoạt động của sợi trục thần kinh (làm cho sự dẫn truyền các xung động được nhanh chóng hơn). Mặc dù quá trình myelin hoá được bắt đầu ở các sợi rễ trước và rễ sau của tuỷ sống từ tháng thứ 4 của phôi, nhưng mãi tới tháng thứ 6 sau đẻ, mới được myelin hoá ở các sợi dẫn truyền xuống bó tháp và kết thúc khi trẻ được 4 tuổi. Do vây, ở trẻ nhỏ, phản xạ Babinski vẫn có thể dương tính, nhưng không nói lên tổn thương bó tháp, mà chỉ là biểu hiện mang tính chất sinh lý.

Não của trẻ sơ sinh có khoảng 14 tỷ tế bào (có số liệu cho rằng não có 17 tỷ tế bào) như người lớn, vỏ não cũng chia làm 6 lớp, nhưng mãi đến 8 tuổi các tế bào mới được b iệt hoá hoàn toàn như người lớn. Lúc đầu, sự phát triển của não chủ yếu tâp trung vào các trung tâm dưới vỏ (như thể vân, thể thị, nhân xám), sau đó vỏ não và thể tân vân (thể vân mới) mới được hình thành và phát triển.

Não của trẻ sơ sinh khó phân biệt ranh giới giữa chất xám và chất trắng, vì thân tế bào thần kinh nằm lấn sang cả chất trắng.

Lưới mao mạch trong não trẻ sơ sinh phát triển mạnh, lưu lượng máu lên não lớn, thành mạch máu còn mỏng manh, khi bị ngạt sức bền thành mạch giảm nhiều (giảm tới 20%), nên dễ bị xuất huyết não.

Não của trẻ em có nhiều nước, protid và lipid. Đến 2 tuổi, thành phần hoá học não bộ của trẻ mới như ở người lớn.

Tiểu não

Sự biệt hoá của các tế bào thần kinh ở vỏ bán cầu tiểu não kết thúc vào khoảng tháng thứ 9 - 11. Tiểu não phát triển đổng thời cùng với sự phát triển của cơ quan vân động. Tiểu não có chức năng điều hoà tự động đối với sự vân động, trương lực cơ, thăng bằng và sự phối hợp các động tác. Do vây, trẻ thường biết đứng, đi sau 9 tháng, và chỉ có thể thực hiện phối hợp các động tác như múa, đi thăng bằng... sau 3 - 4 tuổi.

Tuỷ sống

Hình dáng: Tuỷ sống có hình trụ, hơi dẹt chiều trước sau.

Tuỷ sống có hướng đi uốn cong như hình cột sống: Uốn cong cổ lõm ra sau, uốn cong lưng lõm ra trước. Chóp tuỷ sống trẻ sơ sinh nằm tương đối thấp, ngang với đốt sống thắt lưng III, trong khi ở người lớn - nằm ngang với đốt sống thắt lưng II.

Trọng lượng tuỷ sống của trẻ sơ sinh là 2 - 6 g; trẻ 5 tuổi tăng gấp 3; trẻ 15 tuổi đạt 24 - 30g như người lớn.

Dịch não tuỷ

Số lượng dịch não tuỷ trẻ sơ sinh là 15 - 20 ml, trẻ 1 tuổi là 35 ml, người lớn là 120 - 150 ml.

Màu sắc dịch não tuỷ ở trẻ sơ sinh có thể hơi vàng, trùng với giai đoạn vàng da sinh lý.

Protein trong dịch não tuỷ của trẻ sơ sinh hơi cao (0, 4 - 0,8g/l), nên phản ứng Pandy có thể dương tính nhẹ.

Số lượng bạch cầu:

Trẻ đẻ non có thể lên tới 50 bạch cầu /mm3.

Trẻ sơ sinh có thể lên tới 30 bạch cầu /mm3.

Trẻ lớn, chủ yếu là lymphocyt không quá 5 bạch cầu /mm 3.

Dịch não tuỷ được tạo ra từ các đám rối mao mạch ở não thất bên. Từ đây, dịch não tuỷ đi qua lỗ Monro vào não thất III, tiếp tục qua cống Sylvius đi vào não thất IV, rổi qua lỗ Magendie và lỗ Luska đổ vào các xoang tĩnh mạch và khoang dưới nhện của não và tuỷ sống - nơi chúng sẽ được tiêu biến dần đi. Do vây, bất cứ rối loạn nào liên quan đến tăng tạo, giảm tiêu biến hoặc ngưng trệ sự lưu thông dịch não tuỷ đều có thể dẫn đến bệnh não úng thuỷ (Hydrocelphalia)

Hệ thần kinh thực vật

Hệ thần kinh thực vât, bao gổm 2 hệ là giao cảm và phó giao cảm. Chúng hoạt động ngay sau đẻ, trong đó hệ thần kinh giao cảm chiếm ưu thế.

Hệ giao cảm (được ký hiệu là ɛ):

Gổm những sợi xuất phát từ các trung tâm ở sừng bên chất xám tuỷ sống

thuộc các đoạn từ đoạn lưng 1 (L1) đến đoạn thắt lưng 3 (S3).

Hạch của hệ giao cảm nằm ở gần trung tâm, nhưng xa tạng.

Hầu hết các tạng đều nhân các sợi 8, trừ tụy (chỉ nhân các sợi ɛ’).

Hệ phó giao cảm (được ký hiệu là ɛ’):

Gồm những sợi xuất phát từ các nhân Edinger - Westphel (cuống não), nhân nước bọt trên, nhân nước bọt dưới, nhân lưng (hành não) rồi lần lượt đi theo các dây thần kinh sọ não III, VII, IX và X.

Những sợi xuất phát từ các trung tâm ở sừng trước chất xám tuỷ sống thuộc các đoạn tuỷ cùng 1 - 4.

Hạch của hệ phó giao cảm nằm ở xa trung tâm, như ng lại ở gần hoặc ở ngay trong các tạng.

Hầu hết các tạng đều nhân các sợi s\ trừ dạ con (chỉ nhân các sợi s).

Đặc điểm sinh lý và bệnh lý hệ thần kinh trẻ em

Đặc điểm sinh lý

Do tế bào não chưa biệt hoá, các sợi trục thần kinh chưa được myeli n hoá nên phản ứng của vỏ não có xu hướng lan toả: Bất kỳ một kích thích nào dù là nhỏ cũng có thể gây nên một phản ứng toàn thân (ví dụ phản ứng bắt chộp).

Trong thời kỳ sơ sinh, do khả năng hưng phấn của vỏ não còn yếu, những kích thích của môi trường thường là quá mức, cho nên đã dẫn đến tình trạng ức chế bảo vệ, trẻ ngủ suốt này (ngủ từ 20 - 22 giờ/ngày).

Do vỏ não và thể vân mới chưa phát triển, nên các hoạt động dưới vỏ chiếm ưu thế. Do vây, ở trẻ sơ sinh có thể thấy có những vân động ngoại tháp như múa vờn, vân động chân tay bất thường.

ở trẻ sơ sinh, do hành tuỷ, dây thần kinh ngoại biên, dây thần kinh thị giác đã được myelin hoá nên trẻ có phản xạ bú, nuốt, khóc và nhìn cố định vào một điểm. Nhưng do quá trình myelin chưa được hoàn toàn, nên có những phản xạ là bệnh lý đối với trẻ lớn thì lại là sinh lý đối với trẻ nhỏ (như phản xạ Babinski).

Trong những năm đầu, để đảm bảo cho não có thể phát triển nhanh về khối lượng cũng như về chất lượng, nhu cầu về oxy và tuần hoàn não của trẻ cao hơn n gười lớn.

Điện não đồ cũng thay đổi theo tuổi:

Trẻ sơ sinh: Hoạt động điện não tâp trung vùng đỉnh và vùng trung tâm, sóng delta 0,5 - 3 chu kỳ/giây, điện thế 20 - 50 microvon, sóng không đồng đều, không đồng thời.

Trẻ dưới 1 tuổi: Hoạt động điện não đa số là sóng delta, vùng chẩm xuất hiện sóng theta 3 - 7 chu kỳ/giây.

Trẻ từ 1 - 3 tuổi: Hoạt động điện não là sóng theta 3 - 7 chu kỳ/giây, điện thế 30 - 50 microvon.

Trẻ từ 4 tuổi trở lên: Sóng theta giảm dần, xuất hiện sóng alpha 8 - 12 chu kì/giây, biên độ 30 - 50 microvon.

Đặc điểm bệnh lý

Do các tế bào chưa được biệt hoá, thành phần hoá học có nhiều nước, cho nên dễ xảy ra hiện tượng phản ứng màng não và dễ có những phản ứng nặng nề hơn khi bị nhiễm trùng, nhiễm độc.

Đặc điểm về mao mạch não ở trẻ nhỏ phát triển mạnh, thành mạch mỏng và dễ nhạy cảm với hiện tượng thiếu oxy nên dễ xảy ra hiện tượng xuất huyết não màng não.

Do não bộ của trẻ nhỏ chứa nhiều nước, lại nằm trong hộp sọ không chắc, cho nên một chấn thương nhỏ như ngã ngồi, ngã từ tư thế đứng đều có thể gây ra thoát vị hồi hải mã, thoát vị vách ngăn giữa hai bán cầu hoặc tổn thương trục thần kinh dẫn đến liệt nửa người trên lâm sàng.

Bài viết cùng chuyên mục

Sự phát triển về thể chất của trẻ em

Để đánh giá sự phát triển thể chất của trẻ em, có thể dựa vào việc theo dõi sự phát triển về cân nặng, chiều cao, vòng đầu, vòng ngực, vòng cánh tay, vòng đùi và tỷ lệ giữa các phần của cơ thể​.

Rối loạn lo âu ở trẻ em

Rối loạn lo âu là sự lo sợ quá mức trước một tình huống xảy ra, có tính chất mơ hồ, vô lý, lặp lại và kéo dài gây ảnh hưởng tới sự thích nghi với cuộc sống.

Nhiễm trùng huyết não mô cầu ở trẻ em

Nhiễm trùng huyết não mô cầu là bệnh nhiễm trùng huyết do vi trùng Nesseria Meningitidis gây ra, có hoặc không kèm viêm màng não. Bệnh có thể biểu hiện dưới bệnh cảnh tối cấp gây sốc nặng và tỷ lệ tử vong rất cao, cần điều trị tích cực.

Bệnh học luput ban đỏ rải rác ở trẻ em (Luput ban đỏ hệ thống)

Chưa biết chắc chắn, có nhiều giả thuyết cho là do nhiễm khuẩn tiềm tàng ( Nhiễm vi khuẩn , Virut ...). Có thuyết cho là do hoá chất, có thuyết cho là do rối loạn chuyển hoá, nội tiết.

Bệnh học bạch hầu

Người là ổ chứa của vi khuẩn bạch hầu. Bệnh lây truyền chủ yếu qua tiếp xúc với người bệnh hoặc người lành mang trùng bởi các chất tiết đường hô hấp.

Trầm cảm ở trẻ em

Sững sờ, hoang tưởng và ảo giác có thể gặp trong trầm cảm nặng. Nội dung hoang tưởng thường là có tội, không xứng đáng, bị truy hại hoặc không tồn tại.

Vàng da do bất đồng nhóm máu ABO ở trẻ em

Bất đồng nhóm máu ABO thường gặp ở trẻ có nhóm máu A hay B với bà mẹ có nhóm máu O. Đây là tình trạng tán huyết đồng miễn dịch gây nên khi có bất đồng nhóm máu ABO giữa bà mẹ và trẻ sơ sinh.

Cứng duỗi khớp gối sau tiêm kháng sinh cơ tứ đầu đùi

Cứng duỗi khớp gối là tình trạng bệnh lý với hình thái khớp gối hạn chế gấp với khớp gối ở vị trí trung gian do xơ hoá cơ tứ đâu đùi sau tiêm kháng sinh trong cơ ở trẻ em.

Trạng thái động kinh ở trẻ em

Là trạng thái trong đó các cơn co giật liên tiếp trên 15 phút, giữa 2 cơn bệnh nhân trong tình trạng hôn mê, rối loạn thần kinh thực vật, biến đổi hô hấp, tim mạch.

Chăm sóc trẻ bị bệnh viêm cầu thận cấp

Viêm cầu thận cấp thường xảy ra sau vài tuầ n hoặc vài tháng kể từ khi trẻ bị viêm họng, viêm amydal, chốc đầu, lở loét ngoài da. Do vậy khi thăm khám bệnh nhân phù thận.

Bệnh sởi ở trẻ em

Sởi là bệnh được mô tả lần đầu tiên vào thế kỷ thứ X do y sĩ Persan Rhazes. Đến thế kỷ thứ XVIII, Home mới có những công trình thực nghiệm về sự truyền bệnh.

Suy tim ở trẻ em

Dù bất cứ thay đổi sinh lý hay bệnh lý nào, cơ thể cũng tìm cách thích nghi để duy trì cung lượng tim và cung cấp O2 cho các tổ chức ở giới hạn ổn định hẹp, thông qua hàng loạt cơ chế bù trừ.

Loạn sản phổi ở trẻ em

Lọan sản phổi còn gọi là bệnh phổi mạn tính, biểu mô các phế quản nhỏ bị họai tử và sừng hóa, giảm chất họat diện (surfactant), mô kẻ tăng sinh dạng sợi, hậu quả gây xơ hóa phổi.

Gãy xương ở trẻ em

Xương trẻ em liền nhanh do cốt mạc liên tục, sự cấp máu phong phú, trẻ càng nhỏ liền xương càng sớm.

Bù nước cho trẻ em tiêu chảy và tiếp tục cho ăn

Không bao giờ cho thuốc cầm tiêu chảy hay thuốc chống nôn cho trẻ. Việc này không giúp ích trong điều trị tiêu chảy và một số thuốc này lại nguy hiểm.

Viêm bàng quang chảy máu ở trẻ em

Nguyên nhân chủ yếu là do virut, biến chứng của việc dùng các thuốc ức chế miễn dịch, ghép tuỷ, hãn hữu do một số loại vi khuẩn như liên cầu khuẩn, phế cầu khuẩn.

Chăm sóc trẻ bị suy dinh dưỡng

Da khô, trên da có thể xuất hiên các mảng sắc tố ở bẹn, đùi: lúc đầu là những chấm đỏ rải rác, lan to dần rồi tụ lại thành những đám màu nâu sẫm, sau vài ngày bong ra.

Nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính ở trẻ em

Hiện nay chưa có vaccine. Việc cách ly các trẻ bị viêm mũi họng cấp là không cần thiết. Trẻ nhỏ nên tránh cho tiếp xúc với những người đang bị viêm mũi họng cấp.

Bệnh học viêm cầu thận mạn ở trẻ (Nephrite Chronique)

Nồng độ Ure máu có giá trị tiên lượng: 2-3g/lit thường chết trong vài tuần hoặc tháng. 1-2g/lit cầm cự không ngoài một năm. 0,5-1g/lit sống được lâu hơn.

Chẩn đoán và xử trí co giật ở trẻ em

Ở trẻ em, vì nguyên nhân gây co giật rất phong phú nên hình thái lâm sàng cũng rất đa dạng, do đó người thầy thuốc phải nắm vững cơ chế bệnh sinh, cách phân loại.

Nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính trẻ em

Nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính không những có tỷ lê mắc bệnh cao mà còn bị mắc nhiều lần trong năm, trung bình 1 trẻ trong 1 năm có thể bị nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính từ 3 -5 lần.

Viêm não nhật bản ở trẻ em

Viêm não Nhật Bản là bệnh nhiễm trùng cấp tính hệ thần kinh trung ương do virus viêm não Nhật Bản gây ra, là một bệnh nặng, nguy cơ tử vong và di chứng cao.

Bệnh học nhiễm trùng tiết niệu ở trẻ em

Đau một bên hoặc cả hai bên lan xuống dưới; sờ, vỗ vào vùng hố thắt lưng bệnh nhân đau; có khi bệnh nhân đau như cơn đau quặn thận. Có khi sờ thấy thận to.

Chăm sóc trẻ bị bệnh thận nhiễm mỡ

Đái nhiều protein sẽ dẫn đến giảm protit máu, và như v ây áp lực keo trong máu sẽ giảm, dẫn đến hiên tượng nước trong lòng mạch thoát ra gian bào gây nên phù và đái ít.

Tổng quan nhiễm khuẩn hô hấp cấp ở trẻ em

Nhiễm khuẩn hô hấp cấp phổ biến ở thành thị hơn là nông thôn, tỉ lệ mắc bệnh ở nước ta tăng lên vào tháng 4, 5 và tháng 9, 10. Nguyên nhân có thể do yếu tố ấm nóng, gió.