- Trang chủ
- Sách y học
- Bệnh học ngoại khoa
- Xử trí thời kỳ đầu vết thương bỏng
Xử trí thời kỳ đầu vết thương bỏng
Ngâm vùng bỏng vào nước lạnh (16-200C) trong vòng 20-30 phút. Đặc biệt có hiệu quả trong 20 phút đầu, nếu để sau 30 phút mới ngâm nước lạnh thì không còn giá trị nữa.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Xử trí tại chỗ vết thương bỏng kỳ đầu
Mục đích
Loại trừ các tác nhân gây bỏng còn lại ở vết bỏng, chất bẩn, dị vật nếu có. Chẩn đoán diện tích và độ sâu của bỏng.
Đưa thuốc vaò điều trị tại chỗ.
Yêu cầu
Càng sớm càng tốt, không gây đau đớn thêm cho bệnh nhân.
Đảm bảo vô khuẩn, thao tác nhẹ nhàng tỷ mỷ.
Chống chỉ định
Khi có sốc hoặc đe doạ sốc.
Các bước tiến hành
Ngay khi bị bỏng:
Ngâm vùng bỏng vào nước lạnh (16-200C) trong vòng 20-30 phút. Đặc biệt có hiệu quả trong 20 phút đầu, nếu để sau 30 phút mới ngâm nước lạnh thì không còn giá trị nữa.
Băng ép chặt vừa phải vùng bị bỏng (để hạn chế sự phát triển của dịch nốt phỏng và phù nề vùng bỏng).
Nếu bị bỏng hoá chất phải dùng các chất để trung hoà.
Xử trí bỏng tại tuyến cơ sở:
Giảm đau: Nếu bỏng diện rộng thì dùng thuốc gây mê để thay băng. Thuốc thường dùng là Ketalar (ketamine) 10 mg/kg tiêm bắp thịt, 2 mg/kg tiêm tĩnh mạch.
Thuốc giảm đau:
Dolacgan 0,1. 1ống.
Pipolfen 0,05.1ống.
Tiêm bắp trước thay băng 15 phút.
Đối với trẻ em phải giảm liều theo cân nặng.
Nguyên tắc thay băng:
Đảm bảo vô khuẩn:
Phải thay băng ở các buồng băng vô khuẩn.
Nhân viên thay băng phải mặc quần áo, mũ công tác, đeo khẩu trang đã hấp, rửa tay theo qui định vô khuẩn, đi găng tay đã hấp.
Dụng cụ, phương tiện, vật liệu thay băng đều được tiệt khuẩn.
Người bệnh: trước khi cởi băng phải lau sạch các phần không bị bỏng, cởi bỏ quần áo bẩn ở buồng bệnh trước khi vào buồng băng.
Khi rửa vết thương tuân theo các qui định sau:
Rửa từ vùng sạch- vùng bẩn (đầu, măt rửa trước, vùng bàn chân, tầng sinh môn rửa sau cùng).
Vùng da lành xung quanh vết bỏng rửa bằng nước đun sôi để nguội và nước xà phòng (1 lít nước sôi + 5 gam xà phòng để nguội), lau khô rồi bôi cồn iôd hoặc cồn 700.
Tại vùng bỏng rửa bằng nước xà phòng đã pha, rửa lại bằng dung dịch NMSL 0,9%, lấy bỏ dị vật, cắt bỏ vòm nốt phỏng, lấy bỏ phần da hoại tử. Rửa lại bằng NMSL 0,9% thấm khô.
Chẩn đoán diện tích độ sâu của bỏng, đưa thuốc vào điều trị tại chỗ.
Để hở: vùng mặt. tầng sinh môn, bỏng độ IV hoại tử khô- bôi thuốc đỏ.
Để bán hở: bỏng độ II, sạch không nhiễm khuẩn.
Bôi thuốc tạo màng đối với bỏng độ II, III đến sớm chưa nhiễm khuẩn. (không bôi ở vùng mặt, khớp vận động, tầng sinh môn, đầu chi).
Băng kín vết bỏng đến muộn, đã nhiễm khuẩn, bỏng có hoại tử ướt, đắp gạc kháng sinh, thuốc đắp tại chỗ, đặt gạc khô, băng hút nước, băng kín.
Xử trí một số tác nhân gây bỏng hay gặp
Bỏng do vôi tôi nóng:
Rửa bằng dung dịch NMSL 0,9%
Rửa lại bằng dung dịch NH4CL: 3%, 5%.
Ca(OH)2 + 2 NH4CL ----> CaCL2+ 2NH4OH.
Cắt bỏ vòm nốt phỏng, gắp bỏ dị vật, rửa lại bằng NMSL 0,9%.
Đặt gạc tẩm dung dịch axit nhẹ như: axit Bôric 3%, a.Axêtic 6%, dấm thanh, nước vắt quả chanh, đường... Đặt gạc khô, băng kín lại.
Xử trí bỏng do axit:
Dùng dung dịch bazơ nhẹ để trung hoà như dung dịch Natri Bicacbonat 10-20%, nước xà phòng, nước vôi 5%.
Tẩm dung dịch bazơ vào gạc đắp vào vùng bỏng, đặt gạc khô băng kín.
H2SO4 dùng Magesulphat rắc vào vết bỏng hoặc tiêm Gluconat dưới vết bỏng.
Cacbonic dùng dầu thảo mộc, Glycerin, rượu, cồn để rửa.
Fenic, Phenol dùng dầu thảo mộc đắp và băng lại.
Công tác thay băng bỏng
Mục đích
Loại trừ dịch mủ đọng ở vết bỏng, cắt bỏ mô hoại tử, rửa sạch vết thương bỏng.
Đưa thuốc vào điều trị tại chỗ, bổ sung chẩn đoán.
Yêu cầu
Đảm bảo vô khuẩn, chống lây chéo, nhẹ nhàng tỷ mỷ.
Chống đau đớn, không gây chảy máu hoặc làm bong mảnh da ghép.
Chỉ định thay băng
Thay băng thường kỳ:
Tuỳ theo tình trạng của vết thương, nếu vết thương diện rộng nhiều dịch mủ, thay băng hàng ngày, nếu diện hẹp, ít mủ thay băng cách ngày.
Đối với vết bỏng đã bôi thuốc tạo màng:
Nếu màng khô thì để tự khỏi.
Nếu nhiễm trùng dưới màng thuốc thì dùng kéo cắt bỏ màng thuốc bị nhiễm trùng, rửa sạch bằng NMSL 0,9% và đắp gạc thuốc vào vùng cắt màng.
Đối với vết bỏng đã bôi thuốc tạo màng:
Nếu khô thì không xử trí gì.
Nếu ướt thì rửa sạch bằng NMSL 0,9% và tiếp tục bôi thuốc đỏ để hở.
Đối với vết bỏng để gạc bán hở:
Nếu khô thì không xử trí gì để hở tự khỏi.
Nếu ướt dùng kéo cắt bỏ gạc bị ướt, rửa sạch và đắp một lớp gạc thuốc để bán hở.
Những qui định về vô khuẩn trong thay băng:
Sau khi thay băng cho một bệnh nhân, phải ngâm rửa lại tay, mỗi bệnh nhân phải dùng khẩu phần thay băng riêng để tránh lây chéo.
Khẩu phần thay băng gồm: 2 khay quả đậu, 2 nỉa (1 nỉa có mấu, 1 nỉa không có mấu), 1 kéo cong, bông băng, gạc, thuốc vừa đủ, tất cả đều được hấp sấy vô trùng.
Thứ tự bệnh nhân vào thay băng:
Ưu tiên những bệnh nhân cần xử trí kỳ đầu, bệnh nhân sau ghép da, tiếp theo là bệnh nhân có diện tích bỏng hẹp, dịch ít mủ, rồi đến những bệnh nhân có vết bỏng rộng, cuối cùng là những bệnh nhân có nhiễm khuẩn nặng.
Đưa bệnh nhân tới buồng băng, trừ bệnh nhân bỏng nặng, có bàn và kíp thay bằng di động.
Người hữu khuẩn: chuyển bệnh nhân đến buồng băng, và chuyển bệnh nhân về buồng bệnh, dùng nỉa, kéo tháo băng và gạc ngoài. Dội NMSL 0,9% hoặc thuốc tím loãng cho ẩm gạc, giúp việc cho người vô trùng, băng bó vết thương đúng kỹ thuật.
Kỹ thuật thay băng:
Dùng 2 nỉa nhẹ nhàng bóc lớp gạc bên trong ra, sao cho miếng gạc phải song song với mặt da. Dùng nỉa có mấu cặp bông cầu đã vắt nước sao cho thiết diện của bông khi chấm vết thương được nhiều mà mũi nỉa không chạm vào vết thương.
Chú ý không để gây chảy máu, ảnh hưởng đến mảnh da ghép, nếu mảnh da ghép bong ra phải đặt lại.
Dùng gạc cầu thấm nhẹ nhàng vết thương, lấy bỏ giả mạc, cắt bỏ hoại tử, rửa lại vết thương cho sạch, nếu thấy chảy máu phải đặt gạc tẩm dung dịch CaCl2 10%, hoặc nước muối ấm hay dung dịch Adrenalin pha.
Đặt gạc thuốc hoặc bôi thuốc trực tiếp (theo chỉ định của bác sỹ), sau đó đắp gạc hút nước (nếu là vùng ghép da thêm một gạc Parafin). Lớp gạc sau chờm lên lớp gạc trước 1cm. Độ dày của gạc tuỳ thuộc vào sự tiết dịch, mủ của vết thương.
Đối với mô hạt chuẩn bị ghép da không đắp dầu mỡ trực tiếp lên ô hạt từ 3-5 ngày trước mổ.
Các thuốc thường sử dụng ở buồng băng
Dạng dung dịch:
Gồm NMSL 0,9%. Becberin 0,1%. a.Boric 3%, Nitrat bạc 0,25%, 10%, CuSO4 5%, thuốc đỏ, cồn iod, nước nghệ ép, nước muối 5%, Betadin 10%...
Dạng mỡ, dầu:
Mỡ cao vàng, mỡ Vaselin, mỡ kháng sinh, Chitosan...
Dạng cao bột:
Sến, soan trà, bột B76, bột a.Boric...
Thay băng sau mổ
Ghép da mảnh: thay băng 1 ngày 1 lần, nếu sạch 2 ngày 1 lần.
Ghép da WK: sau 7 ngày thay băng kỳ đầu, 9-12 ngày cắt chỉ.
Chuyển vạt da: sau 5-7 ngày thay băng kỳ đầu.
Ghép vạt da ý: 3-4 ngày thay băng kỳ đầu, nếu nhiều dịch mủ 1-2 ngày thay băng 1 lần.
Trụ Filatop: 3-5 ngày thay băng kỳ đầu sau mổ.
Bài viết cùng chuyên mục
Bệnh học ngoại chấn thương niệu đạo
Khi dương vật mềm, niệu đạo dài khoảng 16cm, trong đó, đoạn tiền liệt tuyến dài khoảng 2,5-3cm, đoạn màng khoảng 1,2cm và đoạn xốp khoảng 12cm.
Bệnh học ngoại gãy thân xương cánh tay
Gãy giữa chỗ bám của cơ ngực lớn và chỗ bám của cơ delta: Đầu trên khép (do cơ ngực lớn kéo), đầu dưới di lệch lên và ra ngoài (do cơ delta kéo).
Hội chứng Dumping trong phẫu thuật dạ dày
Hội chứng Dumping là một nhóm các triệu chứng có thể xảy ra nếu bn có phẫu thuật để cắt bỏ toàn bộ hoặc một phần của dạ dày, hoặc nếu dạ dày của bệnh nhân đã được phẫu thuật nối tắt để giúp giảm cân.
Bệnh học ngoại viêm màng ngoài tim co thắt
Viêm màng ngoài tim co thắt có tràn dịch (1/3 trường hợp): Bệnh nhân trẻ, triệu chứng xuất hiện mới đây, tiền sử viêm màng ngoài tim do nhiễm khuẩn cấp.
Bệnh học ngoại u não
U não là một từ ngữ được các thầy thuốc lâm sàng gọi tên có tính cách quy ước để chỉ các u trong sọ vì thực sự u trong mô não chỉ chiếm trên dưới 50% u trong sọ.
Điều trị sốc do bỏng
Băng ép vừa, theo dõi nếu băng chặt hoặc khi chi thể bị phù nề thì băng sẽ trở thành garo, nên phải nới băng, Nếu bị bỏng hoá chất phải băng bằng chất trung hoà.
Bệnh học ngoại dị dạng hậu môn trực tràng
Từ xưa người ta đã biết đến dị tật hậu môn - trực tràng dưới một tên thông dụng là "không có hậu môn”. Mãi cho đến thế kỷ thứ VII Paulus là người đầu tiên đã áp dụng một phẫu thuật khoan thăm dò từ tầng sinh môn.
Bệnh học ngoại vết thương sọ não hở
Vết thương sọ não hở là loại vết thương gặp cả trong chiến tranh và trong thời bình. Nhưng trong chiến tranh chiếm tỷ lệ cao hơn (khoảng từ 7-10% các loại vết thương do chiến tranh).
Bệnh học ngoại khoa chấn thương bụng kín
Chấn thương bụng kín hay gọi là chạm thương bụng bao gồm cả những tổn thương về bụng, tổn thương có thể chỉ ở ngoài thành bụng nhưng có thể tổn thương các tạng đặc trong ổ bụng (như gan, lách, tụy...).
Bệnh học ngoại lao xương
Lao xương giống viêm xương là hay gây tổn thương ở người trẻ, nhưng khác viêm xương, tổn thương của lao thường bắt đầu ở xương xốp sau đó lan ra xung quanh.
Bệnh học ngoại khoa vết thương thấu bụng
Thực tế khi có vết thương trực tiếp vào thành bụng mà không xuất hiện hội chứng mất máu cấp tính hoặc hội chứng viêm phúc mạc, chúng ta chỉ cần mở rộng thăm dò tổn thương thành bụng.
Bệnh học ngoại khoa thủng dạ dày tá tràng
Thủng ổ loét dạ dày - tá tràng là một cấp cứu ngoại khoa thường gặp. Chẩn đoán thường dễ vì trong đa số trường hợp các triệu chứng khá điển hình, rõ rệt.
Bệnh học ngoại khoa xuất huyết tiêu hóa
Xuất huyết tiêu hoá được định nghĩa là sự đào thải qua đường miệng và hay là qua đường đường hậu môn một số lượng máu từ các thương tổn của đường tiêu hoá.
Bệnh học ngoại chấn thương sọ não kín
Chấn thương sọ não đã được nghiên cứu từ lâu. Từ thời Hyppocrat (460-377 trước Công nguyên) đã có những công trình nghiên cứu về chảy máu hộp sọ.
Bệnh học ngoại khoa áp xe gan amip
Áp xe gan là loại bệnh đã được nghiên cứu từ hơn một thế kỷ nay. Triệu chứng thường điển hình với sốt, gan to, đau. Áp xe gan do amíp thường chỉ có một ổ.
Bệnh học ngoại lồng ruột cấp ở trẻ còn bú
Lồng ruột thường xảy ra ở bé trai nhiều hơn ở bé gái (2/1) trong độ tuổi bú mẹ cao nhất là từ 4 - 8 tháng. Tỷ lệ gặp thấp hơn sau 1 - 2 tuổi và hiếm gặp ở trẻ lớn.
Bệnh học ngoại u trung thất
U trung thất là một khối u có thể gặp ở bất kỳ vị trí nào của trung thất. Bao gồm khối u nguyên phát, thứ phát; lành ác. Bệnh lý hay gặp nhất là u tuyến ức, u thần kinh, có thể gặp ở mọi lứa tuổi, mọi giới.
Bệnh học ngoại gẫy xương cẳng chân
Gãy xương cẳng chân là các trường hợp gãy thân xương chày từ dưới hai lồi cầu đến trên mắt cá trong, có hoặc không kèm gãy xương mác từ cổ tới trên mắt cá ngoài.
Bệnh học ngoại gãy trên lồi cầu xương cánh tay
Gãy trên lồi cầu đứng thứ mười trong các loại gãy xương ở trẻ con nói chung, thường tỷ lệ biến chứng cao hơn so với các gãy chi khác, hay gặp di chứng vẹo khuỷu vào trong
Bệnh học ngoại khoa viêm ruột thừa cấp
Viêm ruột thừa cấp là một trong những bệnh lý cấp cứu ngoại khoa hay gặp nhất. Tần suất viêm ruột thừa cấp song hành với tần suất của quá trình phát triển của mô bạch huyết, với tỷ lệ cao nhất ở giai đoạn đầu của thập niên.
Chẩn đoán độ sâu của tổn thương bỏng
Có rất nhiều phương pháp chẩn đoán diện tích, độ sâu của tổn thương bỏng, cùng với sự phát triên khoa học và công nghệ. Trong phạm vi bài giảng, chỉ đề cập những phương pháp cơ bản, dễ áp dụng trong thực tế.
Bệnh học ngoại ống phúc tinh mạc
Sự tồn tại của ống phúc tinh mạc là một loại bệnh lý rất thường gặp ở trẻ em mà bệnh cảnh lâm sàng thường biểu hiện bằng hai hình thái: Hình thái cấp tính đòi hỏi phải can thiệp phẫu thuật như thoát vị bẹn.
Bệnh học ngoại khoa phi đại hẹp môn vị
Hẹp phì đại môn vị là một bệnh ngoại khoa thường gặp ở giữa độ tuổi sơ sinh và bú mẹ (3 tuần-6 tháng). Bệnh có biểu hiện lâm sàng bằng hội chứng nôn do hẹp lòng môn vị bởi sự phì đại thái quá của lớp cơ vùng môn vị.
Thuốc điều trị tại chỗ vết bỏng
Khám vết bỏng hàng ngày là công việc thường xuyên của bác sỹ điều trị bỏng để bổ xung chẩn đoán độ sâu của bỏng và chỉ định thuốc điều trị tại chỗ và toàn thân phù hợp.
Bệnh học ngoại gẫy xương hở
Gãy xương hở do nhiều nguyên nhân và chiếm hàng đầu là tai nạn lưu thông do các loại xe mô tô và ô tô. Trong thời bình tỷ lệ gãy xương hở chiếm khoảng 8-10% các tổn thương cơ quan vận động.