- Trang chủ
- Sách y học
- Bệnh học ngoại khoa
- Chẩn đoán độ sâu của tổn thương bỏng
Chẩn đoán độ sâu của tổn thương bỏng
Có rất nhiều phương pháp chẩn đoán diện tích, độ sâu của tổn thương bỏng, cùng với sự phát triên khoa học và công nghệ. Trong phạm vi bài giảng, chỉ đề cập những phương pháp cơ bản, dễ áp dụng trong thực tế.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Đại cương
Tổn thương bỏng là nguyên uỷ của bệnh bỏng. Việc chẩn đoán diện tích độ sâu tổn thương bỏng là cơ sở hàng đầu để điều trị, tiên lượng bệnh nhân.
Có rất nhiều phương pháp chẩn đoán diện tích, độ sâu của tổn thương bỏng, cùng với sự phát triên khoa học và công nghệ. Trong phạm vi bài giảng, chỉ đề cập những phương pháp cơ bản, dễ áp dụng trong thực tế.
Tổ chức học của da:
Da là một cơ quan che phủ lớn nhất của cơ thể, có nhiều chức năng, thay đổi theo từng vùng.
Da gồm 3 lớp:
Biểu bì: Epidermis.
Trung bì: (chân bì) Dermis.
Hạ bì: Hypodermis.
Giữa biểu bì và trung bì ngăn cách nhau bởi màng đáy.
Biểu bì: biểu mô lát tầng gồm 4-5 lớp:
Lớp mầm: gồm một hàng tế bào hình trụ còn gọi là tế bào mầm, có khả năng sinh sản rất cao.
Lớp gai: gồm 3-5 hàng tế bào. Các tế bào hình đa diện, nối với nhau bằng cầu nối desmosome.
Lớp hạt: gồm 5-7 hàng tế bào, tế bào dẹt, hình thoi, bào tương nhiều hạt sừng.
Lớp sừng: Tế bào sừng thành dải sừng.
Trung bì: gồm:
Các tế bào tổ chức liên kết như nguyên bào sợi, tế bào sợi.
Mạch máu, thần kinh.
Tuyến bã, nang lông và tuyến mồ hôi.
Các chất nền tảng: Fibronectin, Proteoglukan.
Các sợi tạo keo, sợi lưới, sợi chun...
Còn chia 2 lớp nhỏ: Lớp nhú ngay dưới màng đáy, tập trung nhiều mạch máu, thần kinh. Lớp lưới.
Hạ bì: gồm:
Mô liên kết mỡ.
Mạng lưới mạch máu thần kinh da.
Có ổ mỡ chứa tế bào mỡ, lớp cân nông, mô liên kết lỏng lẻo.
Chẩn đoán độ sâu tổn thương bỏng
Chẩn đoán tổn thương bỏng
Đôi khi khó khăn những ngày đầu, đòi hỏi thường xuyên theo dõi để bổ sung chẩn đoán.
Có nhiều cách phân loại độ sâu bỏng dựa vào triệu chứng lâm sàng, tổn thương giải phẫu bệnh,diễn biến tại chỗ, quá trình tái tạo, phục hồi vết thương. Ví dụ: Pháp: 3 độ; Liên Xô (cũ ): 4 độ; Việt Nam: 5 độ (có 70 tác giả đề nghị trên 25 cách phân loại).
Thực tế lâm sàng độ sâu tổn thương bỏng xếp 2 nhóm (đều thống nhất các trường phái): bỏng nông và bỏng sâu.
Bỏng nông:
Các tổn thương bỏng ở lớp biểu bì.
Hồi phục tái tạo da nhờ sự còn lại của các thành phần biểu mô da là tế bào mầm, tế bào biểu mô ống lông, tuyến bã, tuyến mồ hôi.
Tổn thương tự liền nhờ quá trình biểu mô hoá.
Bỏng sâu:
Các tổn thương toàn bộ da, dưới da.
Tổn thương nếu S nhỏ (dưới 4 cm2) => tự liền sẹo theo kiểu vết thương phần mềm.
Phân loại độ sâu tổn thương bỏng
Viêm da cấp: Độ I, viêm vô trùng cấp.
Tổ chức học:
Tổn thương lớp nông (sừng) của biểu bì.
Biểu hiện xung huyết động mạch, viêm xuất tiết nề tổn thương.
Lâm sàng:
Da khô, đỏ, nề, rát nóng (bỏng nắng).
Sau 4-5 ngày khỏi, bong tróc một lớp mỏng da.
Bỏng độ II: (biểu bì).
Tổ chức học:
Tổn thương các lớp thượng bì, nhưng lớp tế bào mầm, màng đáy hầu như còn nguyên vẹn.
Mao mạch xung huyết mạnh, mao mạch nhú bì ứ huyết => thoát huyết tương qua thành mạch trung bì, thấm lớp biểu bì, bóc tách tế bào mầm còn nguyên vẹn với lớp biểu bì phía trên bị tổn thương tạo nốt phỏng.
Sau 3-4 ngày viêm giảm, 8-13 ngày hồi phục.
Lâm sàng:
Nền da viêm cấp (đỏ, nề, đau).
Xuất hiện nốt phỏng: Vòm mỏng, dịch trong, vàng nhạt, đáy nốt phỏng màu hồng, ướt, thấm dịch xuất tiết. Nốt phỏng có thể hình thành sớm hay muộn: 1-2-12-24 giờ sau bỏng đau tăng mạnh.
Sau 3-4 ngày dịch nốt phỏng một phần hấp thu, phần bay hơi ----> Albumin đông đặc trong nốt phỏng.
8-13 ngày: tự khỏi, không để sẹo.
Bỏng độ III (trung bì).
Tổ chức học:
Tổn thương toàn bộ lớp biểu bì, tới phần trung bì, các phần phụ da phần lớn còn nguyên vẹn (ống lông, tuyến mồ hôi, tuyến bã).
Chia:
Trung bì nông: ống lông, tuyến mồ hôi còn nguyên vẹn.
Trung bì sâu: Chỉ còn các phần sâu tuyến mồ hôi.
Từ các đám tế bào biểu mô tuyến, gốc lông phát triển tạo đảo biểu mô toả như ô mở từ đáy vết thương ngày 8-14, kết hợp tế bào biểu bờ mép.
Trung bì nông: Biểu mô hoá hoàn thành 15-30 ngày .
Trung bì sâu: Lớp tổ chức hạt phủ kín bằng lớp biểu mô từ ngày 30-45.
Lâm sàng trung bì nông:
Tổn thương đặc trưng nốt phỏng với các tính chất:
Có thể hình thành sớm, muộn (ngày 1-2).
Vòm dày hơn.
Đáy nốt phỏng: Đục, màu đỏ, hồng máu.
Còn cảm giác đau (giảm).
Thời gian khỏi 15-30 ngày.
Lâm sàng trung bì sâu:
Tổn thương chỉ còn tế bào tuyến mồ hôi sâu (tới lớp dưới) :
Có thể gặp nốt phỏng vòm dày tính chất độ III, đáy nốt phỏng tím sẫm, trắng bệch, xám, cảm giác giảm.
Đặc trưng: hoại tử, hay gặp ướt; đôi khi khô. Cơ bản phân biệt với độ IV là còn cảm giác đau, da không bị nhăn nhúm, không có hình lưới mao mạch huyết tắc.
Thời gian: 12-14 ngày hoại tử rụng, lớp tổ chức hạt hình thành tạo đảo biểu mô rải rác, lấm tấm, trắng hồng, óng ánh.
Khỏi ngày 30-45, để lại sẹo mềm, nhạt màu so với da lân cận, nhìn kỹ có lỗ trỗ nhỏ.
Khả năng tự liền mất khi các đảo biểu mô còn sót bị hoại tử thứ phát do viêm mủ, rối loạn tuần hoàn (tì đè). Người già trung bì teo thì bỏng độ III cũng gây huỷ nhiều yếu tố biểu mô nên liền sẹo khó.
Bỏng toàn bộ da IV (III, IIIa):
Tổ chức học:
Tổn thương toàn bộ da: Biểu bì, trung bì, hạ bì. Các tổ chức biểu mô da đều bị huỷ hoại.
Tổn thương hẹp < 5cm => khả năng tự liền (trẻ em lớn hơn). Để tự khỏi thường sẹo xấu.
Lâm sàng bỏng độ IV:
Chia hoại tử khô và hoại tử ướt.
Hoại tử ướt:
Tổ chức học:
Nhiệt độ da 50-58o.
Sợi Collagen trương, tách rời, dịch nề xám, lấp quản lòng mạch, nguyên sinh chất tế bào biểu mô đục, vón hạt, giới hạn dưới hoại tử không đều, không rõ.
Sau nổi bật quá trình viêm xuất tiết, viêm nhiễm lan tràn.
Lâm sàng:
Da trắng bệch, đỏ xám, hoa vân.
Gồ so da lành.
Sờ cảm giác ướt, mềm.
XQ: nề, xung huyết rộng.
Có thể có nốt phỏng vòm dày, đáy da hoại tử trắng bệch.
Mất cảm giác đau (tận cùng thần kinh bị huỷ hoại).
Diến biến:
Viêm mủ sớm: 10-14 ngày do Enzim huỷ Protein của vi khuẩn, tế bào, tổ chức.
Hoại tử chuyển màu xanh sẫm, sau tan rữa, rụng từ ngày 15-20.
Dưới da hoại tử ướt: Lớp mỡ, dịch mủ xám đục, rụng để lộ nền nhiều sợi Fibrin dính chặt.
Hình thành tổ chức hạt.
Hoại tử khô:
Nhiệt độ cao, tác dụng thời gian ngắn (To: 65-70o).
Lâm sàng:
Da chắc, khô màu đen, vàng thui.
Lõm so với da lành.
Sờ khô, cứng, thô ráp.
Xung quanh: viền hẹp da màu đỏ nề.
Hiện tượng lấp quản: qua lớp hoại tử thấy hình lưới mao mạch dưới da tắc, đông vón.
Mất cảm giác đau.
Đề phòng garo khi bỏng chu vi chi thể.
Tổ chức học:
Các phần da hoại tử mất kiến trúc, hình thể, tạo thành một khối đông đặc. Sợi keo dính thành dải, mạch máu răn rúm, đầy máu.
Ranh giới rõ ràng.
Diễn biến:
Không tan rã, khô đét => rụng cả khối.
Hình thành tổ chức hạt.
Nói chung hoại tử khô => ướt và ngược lại. Hoại tử ướt là môi trường thuận lợi vi khuẩn phát triển. Lưu ý nhất khi quá trình viêm mủ xảy ra => toàn thân thường nặng. Khi hoại tử rụng => sốt giảm 1-3o.
Tổ chức hạt:
Sau hoại tử rụng, thường hình thành ngày 10-12.
Tổ chức hạt đẹp:
Đỏ tươi, có hạt mịn.
Rớm máu khi thay băng.
Phẳng, ít dịch mủ, mép vết thương biểu mô hoá tốt.
Có thể:
Tổ chức hạt phù nề (thiểu dưỡng).
Tổ chức hạt xơ hoá, tổ chức hạt xuất huyết, hoại tử thứ phát.
Hoại tử thứ phát: Do rối loạn tuần hoàn và dinh dưỡng tại chỗ.
Thường gặp nơi tỳ đè.
Hay ở bỏng điện hoặc nhiễm khuẩn hay ở bỏng trung bì.
Biểu hiện sớm: Vết thương se khô, tím => hoại tử.
Vi thể: hình thành viền bạch cầu thứ 2 ở sâu, ranh giới giữa các tổ chức bị hoại tử thứ phát và phần lành.
Bỏng độ V:
Tổn thương toàn bộ lớp da, các bộ phận khác dưới da như cân, gân, cơ, xương khớp, mạch máu, thần kinh, tạng có thể bị bỏng.
Hay gặp ở bỏng điện, bỏng tiếp xúc với kim loại, bỏng lửa do tự thiêu, người mất tri giác khi bị bỏng (động kinh), bỏng Phốtpho, Napan.
Bỏng cơ:
Cơ màu xám, vàng nhạt như thịt luộc, thịt thui.
Không có máu chảy.
Cắt không thấy cơ co.
Có thể thấy rõ hoại tử lõm sâu, nổi rõ lưới mao mạch lấp quản, mất cảm giác hoàn toàn, rạch da, cân không chảy máu, rạch tới cơ hoại tử.
Sau đó:
Hoại tử cơ tan rữa, rụng muộn: Cơ như đám thịt nghiền, mùi thối.
Khi rụng:
Thường nhiễm độc sắc tố cơ (Myoglobin) gây suy thận cấp.
Nhiễm khuẩn nặng.
Lộ mạch máu, thần kinh gây chảy máu thứ phát.
Bỏng cơ cần đề phòng hoại thư sinh hơi.
Vi thể: Cơ mất hình thể đĩa vân, tế bào cơ bị đứt đoạn, hoại tử thuần nhất.
Bỏng các gân:
Có thể do tác nhân bỏng, hoặc do để lộ gân lâu ngày do hoại tử rụng gây hoại tử gân.
Thường các gân nông ngay dưới da (cổ tay, bàn ngón tay, bàn chân...).
Thường thời gian rụng rất muộn.
Bỏng khớp:
Gặp khớp ngón tay, ngón chân, cổ chân, gối, khuỷu.
Có thể do tác nhân bỏng hoặc do để lộ khớp khi hoại tử rụng.
Khi rụng: Hình thành lỗ rò khớp, viêm mủ khớp, tiêu huỷ sụn khớp, dính khớp...
Bỏng xương:
Thường xương nông dưới da: Mắt cá, xương sọ, xương chày, xương mỏm khuỷu, xương bánh chè...
Chẩn đoán sớm khó.
Khi da hoại tử rụng lộ xương: Mùa vàng xám, đục không rớm máu.
X quang: phải từ tuần 5-6.
Tự rụng muộn (vài tháng), sau hình thành tổ chức hạt (từ tuỷ xương, từ màng não).
Bỏng tạng sâu:
Sụn tai, mi mắt.
Dương vật.
Tuyến vú.
Hậu môn, trực tràng.
Mắt.
Nội tạng...
Chẩn đoán độ sâu bỏng
Hỏi bệnh
Tác nhân:
Nhiệt ướt => nông.
Lửa, điện => sâu.
Acide => hoại tử khô.
Base => hoại tử ướt.
Thời gian tác dụng:
Kéo dài => sâu.
Thời gian được sử lý kỳ đầu.
Biện pháp xử lý.
Hoàn cảnh bị bỏng: Tự tử, động kinh => rất sâu.
Khám tổn thương
Dựa hình thái nốt phỏng.
Hình thái hoại tử: Bỏng sâu hiện tượng lấp quản, bỏng rụng ngón tay, chân...
Nghiệm pháp
Thử cảm giác đau:
Nhổ lông vùng tổn thương, kim, bông cồn. Lưu ý khi bệnh nhân chưa dùng giảm đau, tránh gây đau đớn quá cho bệnh nhân.
Nếu: Đau so da lành : Độ II.
Đau giảm so da lành: Độ III.
Mất hoàn toàn: Độ IV.
Nghiệm pháp tuần hoàn vùng bỏng: Đo huyết áp đặt phía trên bỏng sâu, bơm 80-90 mm Hg x 10 phút ( ngăn máu tĩnh mạch trở về).
Nông: bầm tím do ứ trệ (lưới mao mạch nguyên vẹn).
Sâu: không thấy màu.
Rạch các đám hoại tử (necrotomie):
Khi hoại tử chu vi chi thể.
Nếu rạch: Không chảy máu, không đau => tổn thương tiếp tục còn sâu.
Đo pH tổn thương bỏng.
Biện pháp ở cơ sở lớn
Dùng chất màu tiêm tĩnh mạch, phát hiện ở vùng bỏng:
Nếu thấy chất màu ở vùng bỏng là tuần hoàn còn lưu thông, bỏng nông. Nếu không thấy là tắc tuần hoàn mao mạch, bỏng sâu.
Chất màu: Xanh Evans, xanh Metylen...
Dùng chất huỳnh quang, tiêm tĩnh mạch, xem tổn thương dưới đèn Wood ở buồng tối.
Chất phát huỳnh quang Fluorescein natri 20%.
Độ II:
Phát sáng huỳnh quang vàng da cam trên toàn bộ vết bỏng.
Xuất hiện dịch vàng tại nền nốt bỏng.
Độ III:
Phát sáng huỳnh quang rải rác tại từng vùng trên vết bỏng.
Không có dịch màu vàng tại bề mặt vết bỏng.
Độ IV:
Không thấy phát sáng huỳnh quang ở bề mặt.
Không có dịch vàng tại vết bỏng.
Dùng đồng vị phóng xạ P32 ... phát hiện phân bố vùng bỏng 48-96 giờ sau bằng máy đếm xạ => biết tuần hoàn vùng bỏng.
Vùng chất màu bôi vùng bỏng, xem thay đổi màu sắc tương ứng với tổn thương .
Sinh thiết da làm giải phẫu bệnh là chính xác nhất.
Đo tuần hoàn bằng tia Laserdoppler.
Chụp nhiệt hình Thermography.
Siêu âm.
Xquang cắt lớp điện toán (Computored tomography).
Cộng hưởng từ hạt nhân.
Đo điện trở, pH da bỏng...
Bài viết cùng chuyên mục
Bệnh học ngoại thông động tĩnh mạch
Thông động tĩnh mạch là có sự lưu thông bất thường giữa động mạch và tĩnh mạch. Nguyên nhân phần lớn do chấn thương mạch máu. Vấn đề chẩn đoán cần phát hiện sớm và có thái độ xử trí kịp thời để tránh những biến chứng về tim mạch.
Bệnh học ngoại khoa chấn thương bụng kín
Chấn thương bụng kín hay gọi là chạm thương bụng bao gồm cả những tổn thương về bụng, tổn thương có thể chỉ ở ngoài thành bụng nhưng có thể tổn thương các tạng đặc trong ổ bụng (như gan, lách, tụy...).
Bệnh học ngoại dị dạng bẩm sinh vùng rốn
Thoát vị cuống rốn là một dị dạng bẩm sinh trong đó một số tạng bụng trồi ra ngoài ổ bụng qua lỗ hổng của vành đai rốn tạo thành một khối phình được bọc kín bởi lớp phúc mạc nguyên thuỷ và lớp màng ối ở vùng rốn.
Lâm sàng và điều trị thời kỳ suy mòn của bệnh bỏng
Nếu tính cả thải Protein qua phân, nước tiểu... mất Protein có thể đạt tới 100-200g/24h. Bỏng sâu mất Protein qua vết bỏng đạt 10mg/cm2/24h.
Bệnh học ngoại tắc ruột sơ sinh
Tắc ruột sơ sinh là một cấp cứu ngoại khoa thường gặp trong lĩnh vực ngoại nhi. Bệnh thường xảy ra trong 15 ngày đầu của đời sống. Bệnh liên quan mật thiết đến các ngành sản khoa và nhi khoa.
Bệnh học ngoại gẫy thân xương đùi
Gãy xương đùi được phân loại theo giải phẫu học và vị trí đường gãy: 1/4 trên, 2/4 giữa, 1/4 dưới. Đối với gãy 1/4 trên sát mấu chuyển thì khó phân biệt gãy mấu chuyển.
Bệnh học ngoại sỏi hệ tiết niệu
Sỏi hệ tiết niệu bao gồm sỏi thận, sỏi niệu quản, sỏi bàng quang và niệu đạo, sỏi thận, niệu quản và bàng quang hay gặp hơn: Sỏi thận là một bệnh phổ biến trên thế giới. Việt Nam nằm trong “vành đai” mắc sỏi thận khá cao.
Bệnh học ngoại ung thư phổi
Ung thư phổi là bệnh lý rất hay gặp trong phẫu thuật lồng ngực, là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu trong những ung thư nói chung. Tỷ lệ bệnh ngày càng tăng do ngày càng có nhiều yếu tố nguy cơ gây ung thư.
Bệnh học ngoại viêm xương
Viêm xương có thể tự nhiên, nhưng chấn thương đóng vai trò nào đó của sự khu trú tắc mạch xương trên một cơ quan bị nhiễm khuẩn.
Bệnh học ngoại gẫy hai xương cẳng tay
Kéo theo trục cẳng tay với lực kéo liên tục và tăng dần, đến khi hết di lệch chồng thì nắn các di lệch sang bên, gập góc còn lại
Bệnh học ngoại khoa hẹp môn vị
Loét dạ dày-tá tràng là nguyên nhân hay gặp nhất. Tất cả mọi vị trí của ổ loét ở dạ dày hay tá tràng, ở gần hay xa môn vị, đều có thể gây nên hẹp môn vị tạm thời hay vĩnh viễn.
Bệnh học ngoại teo đướng mật bẩm sinh
Teo đường mật bẩm sinh rất hiếm gặp. Tại Nhật Bản và các nước châu á, tỷ lệ bệnh khoảng 1/10.000 trẻ sơ sinh sống. Tỷ lệ nữ/nam = 1:0,64. Vấn đề chẩn đoán và điều trị rất phức tạp.
Xử trí thời kỳ đầu vết thương bỏng
Ngâm vùng bỏng vào nước lạnh (16-200C) trong vòng 20-30 phút. Đặc biệt có hiệu quả trong 20 phút đầu, nếu để sau 30 phút mới ngâm nước lạnh thì không còn giá trị nữa.
Bệnh học ngoại u xương
Ung thư xương là khối u ác tính xuất phát từ các tế bào của xương, trong đó hay gặp nhất là ung thư liên kết tạo xương và tạo sụn. Đây là loại ung thư thường gặp ở thiếu niên và thanh niên trẻ.
Bệnh học ngoại trật khớp háng
Ở người lớn trật khớp háng do chấn thương mạnh xảy ra do một lực tác động gián tiếp vào đầu dưới xương đùi, và vùng gối khi đùi gấp, xoay trong và khép, khớp gối ở tư thế gấp.
Bỏng chiến tranh
Khi cháy tạo ra sức nóng cao, cháy lâu, có chất khi cháy tạo ra nhiều chất độc cho cơ thể, có chất gây bỏng đồng thời là chất độc cho cơ thể.
Bệnh học ngoại khoa thoát vị bẹn
Thoát vị là tình trạng các tạng bên trong ổ phúc mạc đi ra ngoài ổ phúc mạc trong một túi thừa phúc mạc gọi là “túi thoát vị”, qua các điểm yếu tự nhiên của thành bụng. Các điểm yếu này có thể là bẩm sinh hay mắc phải.
Bệnh học ngoại u xơ tiền liệt tuyến
U xơ tiền liệt tuyến là một loại u lành tính thường gặp trong bệnh lý của hệ tiết niệu và thường xuất hiện ở nam giới lớn tuổi. Mặc dù có thể thấy u xơ tiền liệt tuyến xuất hiện ở người trẻ < 30 tuổi, nhưng chủ yếu là ở nam giới trên 60 tuổi.
Bệnh học ngoại lao xương
Lao xương giống viêm xương là hay gây tổn thương ở người trẻ, nhưng khác viêm xương, tổn thương của lao thường bắt đầu ở xương xốp sau đó lan ra xung quanh.
Bệnh học ngoại khoa teo thực quản
Bệnh teo thực quản là hậu quả của rối loạn trong quá trình tạo phôi giữa tuần thứ 4 và tuần thứ 6, điều này giải thích cho hiện tượng teo thực quản thường kèm theo nhiều dị tật phối hợp khác.
Bệnh học ngoại khoa thoát vị đùi
Khi lỗ thoát vị đùi ở vị trí này phải chú ý: Phía ngoài cổ túi có tĩnh mạch đùi và phía trên cổ túi có động mạch thượng vị và nhánh nối động mạch thượng vị với mạch bịt.
Bệnh học bỏng điện
Bỏng điện thường sâu, tổn thương tại chỗ biểu hiện ở điểm vào và ra của luồng điện, vị trí thường gặp là bàn tay, bàn chân. ở trẻ em có thể bỏng miệng, môi, lưỡi do ngậm vào cực điện.
Bệnh học ngoại gẫy xương cẳng chân
Gãy xương cẳng chân là các trường hợp gãy thân xương chày từ dưới hai lồi cầu đến trên mắt cá trong, có hoặc không kèm gãy xương mác từ cổ tới trên mắt cá ngoài.
Bệnh học ngoại lồng ruột cấp ở trẻ còn bú
Lồng ruột thường xảy ra ở bé trai nhiều hơn ở bé gái (2/1) trong độ tuổi bú mẹ cao nhất là từ 4 - 8 tháng. Tỷ lệ gặp thấp hơn sau 1 - 2 tuổi và hiếm gặp ở trẻ lớn.
Bệnh học ngoại gẫy xương hở
Gãy xương hở do nhiều nguyên nhân và chiếm hàng đầu là tai nạn lưu thông do các loại xe mô tô và ô tô. Trong thời bình tỷ lệ gãy xương hở chiếm khoảng 8-10% các tổn thương cơ quan vận động.