- Trang chủ
- Sách y học
- Bệnh học và điều trị đông y
- Y học cổ truyền thiếu máu cơ tim
Y học cổ truyền thiếu máu cơ tim
Bệnh cơ tim thiếu máu có thể xuất hiện với bệnh cảnh đau ngực (với rất nhiều mức độ khác nhau) hoặc không có biểu hiện lâm sàng.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Đại cương
Bệnh cơ tim thiếu máu được xem là hậu quả của tình trạng xơ mỡ động mạch vành tim (xem bài xơ mỡ động mạch). Tình trạng teo hẹp động mạch vành đáng kể, đồng thời với những rối loạn cơ chế điều hòa co thắt và giãn nở mạch vành là những yếu tố hình thành những triệu chứng rất phong phú của bệnh.
Dịch tễ học
Bệnh cơ tim thiếu máu là nguyên nhân chủ yếu ảnh hưởng đến tỷ lệ tử vong và tỷ lệ bệnh tật trên người sau 40 tuổi. Tử vong do bệnh tim mạch chiếm khoảng 40% trên tổng số tử vong. Thống kê cho thấy có khoảng 800.000 trường hợp nhồi máu cơ tim mới, 450.000 trường hợp nhồi máu cơ tim tái phát và 520.000 tử vong/năm.
Bệnh cơ tim thiếu máu tác động rất lớn đến chăm sóc y tế của một nước. Tại Mỹ, năm 1989, bệnh cơ tim thiếu máu đã có 56 triệu đợt khám bệnh, 455 triệu ngày hạn chế làm việc, 184 triệu ngày nằm viện và mất 23 triệu ngày công. Bệnh cơ tim thiếu máu hiện đứng hàng thứ 3 về loại bệnh phải nằm viện ngắn ngày (sau sinh đẻ và chấn thương). Để chẩn đoán và điều trị bệnh cơ tim thiếu máu rất tốn kém.
Nguyên nhân theo y học hiện đại
Nhiễm mỡ xơ mạch
Là nguyên nhân trong 90% các trường hợp.
Những nguyên nhân khác (10%)
Tổn thương thực thể ở động mạch vành tim.
Viêm động mạch vành do giang mai, viêm quanh nút động mạch, tắc mạch vành do cục máu từ xa đến.
Về cơ chế bệnh lý bệnh cơ tim thiếu máu có liên quan chặt chẽ đến sự cân bằng của 2 yếu tố cung cấp và nhu cầu oxy của cơ tim. Do đó, những yếu tố thuận lợi sau có thể được tìm thấy trong bệnh lý này như:
Khi sự cung cấp oxy cho cơ tim không đủ: thiếu máu nặng.
Khi nhu cầu sử dụng oxy gia tăng: tăng huyết áp, phì đại thất trái, hoạt động thể lực đột ngột gia tăng.
Nguyên nhân theo y học cổ truyền
Bệnh cơ tim thiếu máu có thể xuất hiện với bệnh cảnh đau ngực (với rất nhiều mức độ khác nhau) hoặc không có biểu hiện lâm sàng (bệnh được phát hiện tình cờ trong khi khám, điều trị một bệnh lý khác). Như vậy, có thể tóm tắt các triệu chứng cơ năng thường gặp trong bệnh lý cơ tim thiếu máu gồm:
Những triệu chứng có thể gặp trong bệnh lý xơ mỡ động mạch.
Đau ngực gọi là Tâm thống, hoặc kèm khó thở thì được gọi là Tâm tý, Tâm trướng, Hung hiếp thống.
Qua việc phân tích cơ chế bệnh sinh toàn bộ các chứng trạng thường gặp của y học cổ truyền trong bệnh cơ tim thiếu máu, có thể biện luận về cơ chế bệnh sinh theo y học cổ truyền như sau:
Nguyên nhân của bệnh lý này theo y học cổ truyền có thể là:
Do thất tình như giận, lo sợ gây tổn thương 2 tạng Can, Thận âm.
Do bệnh lâu ngày, thể chất suy yếu, âm (huyết), dương (khí) suy, hư hỏa bốc lên, nung nấu dịch thành đàm, đảm hỏa gộp lại gây bệnh.
Do đàm thấp ủng trệ gây tắc trở kinh mạch. Đàm thấp có thể do ăn uống không đúng cách gây tổn hại Tỳ Vị.
Chẩn đoán theo y học hiện đại
Suy mạch vành mạn
Khi nào thì nghĩ đến việc tìm kiếm suy mạch vành mạn?
Những người đau ngực, có nguy cơ thiểu năng vành.
Yếu tố nguy cơ |
Nội dung bệnh |
Phòng ngừa |
Tuổi tác |
Trong độ tuổi từ 45 - 60 tuổi: nguy cơ thiếu máu tim tăng 2 lần khi già đi 10 tuổi. |
|
Di truyền |
- Tiền căn gia đình có nhồi máu cơ tim hoặc đột tử →nguy cơ thiếu máu tim tăng gấp 1,5 lần |
|
Thuốc lá |
- Nguy cơ thiếu máu tim tăng: |
- Giảm được 50 - 70% nguy cơ nhồi máu cơ tim sau 5 năm ngừng hút. |
Tăng Cholesterol máu |
Nguy cơ bệnh tim thiếu máu tăng gấp 4 lần nếu Cholesterol: 1,8 - 2,8 g/l |
- Cứ giảm được 1% lượng Cholesterol toàn phần thì giảm được 2-3% nguy cơ nhồi máu cơ tim. |
Tăng huyết áp |
Nguy cơ bệnh tim thiếu máu tăng theo mức độ trầm trọng của bệnh: |
- Làm giảm được 1 mmHg của huyết áp min sẽ làm giảm 2-3 nguy cơ nhồi máu cơ tim. |
Tiểu đường |
Nguy cơ bệnh tim thiếu máu gấp 2,8 lần nếu có bệnh tiểu đường. |
Chưa rõ |
Béo phì |
Nguy cơ bệnh tim thiếu máu tăng gấp đôi nếu cân nặng vượt qua 120% cân nặng lý tưởng (đây không phải là yếu tố nguy cơ độc lập mà thông qua tăng huyết áp, Cholesterol máu cao). |
Giảm cân làm giảm được 33 - 35% nguy cơ bệnh tim thiếu máu. |
Tăng Triglycerid máu |
- Không phải là yếu tố nguy cơ ở đàn ông. |
|
Tăng |
Yếu tố này thường kết hợp với những yếu tố nguy cơ khác, do đó không thể đánh giá nguy cơ của nó riêng lẻ được. |
|
Rượu |
Vai trò của nó có tính 2 mặt: |
Nếu dùng 1 ly rượu vang trong ngày làm giảm 35-55% nguy cơ nhồi máu cơ tim. |
Trạng thái |
Nguy cơ tử vong do bệnh tim mạch là 1,9% |
Nếu tái lập trạng thái vận động sẽ làm giảm 35 - 55% nguy cơ nhồi máu cơ tim. |
Thuốc ngừa thai uống |
- Nguy cơ nhồi máu cơ tim tăng gấp 4 lần kể từ sau 1 tháng sử dụng. |
|
Estrogen |
|
Cung cấp Oestrogen sau mãn kinh làm giảm 44% nguy cơ nhồi máu cơ tim. |
Đau ngực:
Điển hình: Đau ngực với các tính chất co thắt hoặc cảm giác nặng như bị đè. Đau tăng khi cử động, khi gắng sức (làm người bệnh sợ không dám cử động). Vị trí đau sau xương ức, lan lên hàm, vai, tay. Đau ngực có thể bắt đầu từ từ và kéo dài khoảng vài phút.
Không điển hình: Đau có cảm giác chặn, tức ngực (làm bệnh nhân chậm hoặc ngưng bước). Vị trí không điển hình ở hàm hoặc ở tay, có vẻ như đau không tăng khi gắng sức và không giảm với nằm nghỉ khi gắng sức và không giảm với nằm nghỉ.
Có 1 chu kỳ khá rõ rệt: đỉnh cao của triệu chứng này là 4 giờ sau khi thức dậy (thời điểm mà nor-adrenaline cao nhất trong ngày).
Chú ý: Tùy theo mức độ của tình trạng lo âu, của những yếu tố nguy cơ của xơ vữa động mạch mà chúng ta thấy cần thiết hay không thực hiện các xét nghiệm cận lâm sàng để xác định.
Khó thở:
Trong nhiều trường hợp, khó thở chỉ xuất hiện đơn độc và là triệu chứng chủ yếu (được xem như tương đương đau ngực).
Những trường hợp không có triệu chứng lâm sàng:
Những trường hợp bệnh mạch vành đang được điều trị: đó là những người mà chúng ta đang muốn kiểm tra hậu quả của việc điều trị (như làm cầu nối, nong rộng mạch vành). Thường làm phim mạch vành đồ (coronarographie).
Những trường hợp có bệnh động mạch (động mạch chậu hay động mạch não). Đây là những người có nguy cơ tử vong rất cao do thiểu năng vành. Vì vậy, luật bắt buộc trên những người này trước khi tiến hành phẫu thuật phải tiến hành xác định có suy mạch vành ? (để tránh tai biến phẫu thuật).
Xác định suy mạch vành mạn:
Chẩn đoán suy mạch vành có khi không phải dễ dàng. Cần dựa vào những yếu tố sau:
Đau ngực.
Những yếu tố nguy cơ: phái, di truyền, hút thuốc, ít vận động thể lực, béo phệ, tăng huyết áp, stress, chế độ ăn nhiều mỡ, tiểu đường.
Khám lâm sàng. Mục đích chủ yếu:
Loại bỏ những nguyên nhân hiếm của suy mạch vành như hẹp van động mạch chủ, thiếu máu nặng.
Tìm ra thêm xơ mỡ động mạch có phạm đến những vùng cơ thể khác như không bắt được mạch ở chân, âm thổi ở động mạch cảnh, ở động mạch dưới đòn, huyết áp 2 bên không giống nhau.
Chẩn đoán khách quan suy mạch vành bằng các nghiệm pháp.
Điện tim, điện tim gắng sức (có thể làm Holter/24 giờ).
Kết quả điện tim: Trong tình trạng nghỉ: hiếm khi bất thường. Sóng T đảo ngược (với điều kiện phải rất rõ): T âm, nhọn và tập trung vào một vùng mạch máu cụ thể. Ví dụ D2, D3, aVF. Trong cơn đau cấp (có giá trị quan trọng): nếu EKG bình thường thì có thể loại bỏ thiếu máu cơ tim. Nếu ST chênh xuống: chắc chắn thiếu máu cơ tim.
Kết quả EKG gắng sức: quan trọng nhất: nếu ST chênh xuống, lớn hơn 1mm trên 2 chuyển đạo tương xứng, thì rất có ý nghĩa. Trên bệnh nhân có đau ngực → do thiếu máu cơ tim. Trên bệnh nhân không có đau ngực → có thể có suy vành. Khi kết quả (+) sớm xuất hiện trên những gắng sức nhẹ (chưa cao) như ST chênh xuống rất sâu hay xuất hiện trên nhiều chuyển đạo hoặc nếu có rối loạn nhịp tim kèm theo trong nghiệm pháp gắng sức thì giả thuyết về mạch vành tắc nghẽn là rất đáng tin cậy và nên nghĩ đến nghiệm pháp chụp cản quang động mạch vành tim (coronarographie).
Chụp nhấp nháy cơ tim (với Thallium 201 = đồng vị phóng xạ) kích hoạt với Dipiridamole.
Kết quả nghiệm pháp nhấp nháy với Thallium 201. Nghiệm pháp này tốt hơn EKG gắng sức (nhất là có giá trị định vị tổn thương rất rõ). Thallium là chất tương tự K và được phân bố ở các tế bào được tưới máu. Nếu có vùng nhồi máu → trên hình sẽ có lỗ khuyết. Nếu vùng cơ tim chỉ được nuôi bởi một mạch máu bị teo hẹp → kết quả có thể bình thường lúc nghỉ ngơi, nhưng sẽ bất thường lúc gắng sức. Nếu nghiệm pháp gắng sức không thể thực hiện được, có thể thay thế bằng chích Dipyridamole (đây là thuốc giãn động mạch mạnh) → hình ảnh tăng tưới máu ở vùng cơ tim bình thường. Trong khi đó, vùng tưới máu bởi động mạch teo hẹp không có hình ảnh tăng tưới máu hoặc hình ảnh giảm tưới máu (do hiện tượng cướp máu sang vùng lành).
Bất lợi: đắt, trang thiết bị có thể cho hình ảnh đẹp thường hiếm, chuyên gia còn ít.
Siêu âm tim:
Suy mạch vành mãn thường cho kết quả bình thường trên siêu âm tim. Đã có nhiều nhóm nghiên cứu dùng siêu âm tim gắng sức, siêu âm tim với Dipyridamole, siêu âm tim với Dobutamine. Từ năm 1993, những kỹ thuật này không còn dùng nhiều trong chẩn đoán thiếu máu cơ tim.
. Ngược lại, siêu âm tim quy ước có giá trị xác định tình trạng tâm thất trái.
Độ nhạy và độ đặc hiệu của các test này không phải 100%, do đó chỉ được chỉ định trên những người về mặt lâm sàng nghĩ nhiều đến thiếu máu cơ tim (không nêu chỉ định cho những người đau ngực không điển hình và hoàn toàn không có yếu tố nguy cơ của xơ mỡ động mạch vì sẽ gặp (+) giả rất cao.
Phải thực hiện xét nghiệm gì:
Đường huyết lúc đói. Đường huyết sau khi ăn.
Bilan mỡ: Cholesterol, HDL, LDL, Triglycerides.
Nhưng quan trọng hơn cả là cần xem có làm mạch vành đồ ?, đây là xét nghiệm giúp chẩn đoán dương tính có suy mạch vành mạn, giúp quyết định chỉ định phẫu thuật tái lập tuần hoàn tim.
Thông thường ta có thể điều trị trước (trong 3 trường hợp sau):
Đau ngực giảm chỉ còn những cơn thưa thớt xuất hiện trong những gắng sức không thông thường.
Kết quả chỉ dương tính trong những giai đoạn gắng sức sau cùng.
Nếu bệnh nhân không có triệu chứng đau ngực. Vấn đề này càng rõ hơn nếu bệnh nhân càng lớn tuổi.
Ngược lại, chỉ định mạch vành đồ cao khi:
Đau ngực làm ảnh hưởng đến những sinh hoạt thường ngày của bệnh nhân.
Kết quả đã dương tính ngay với những gắng sức nhẹ.
Suy giảm chức năng thất trái. Vấn đề này càng rõ hơn khi bệnh nhân trẻ.
Co thắt mạch vành/thiếu máu cơ tim mạn
Khi có đau ngực điển hình mà không có gắng sức (khi ngủ) hoặc khi thở nhanh.
Điển hình là xuất hiện ban đêm # 4 giờ sáng.
Thỉnh thoảng lo âu, hồi hộp vào cuối cơn.
Dùng Trinitrine giảm đau ngay.
Trên ECG: ST chênh lên ở những chuyển đạo tương ứng với 1 vùng tưới máu
Mạch vành đồ: dùng Methergin thấy dấu co thắt.
Bệnh cảnh này nếu xuất hiện:
Ở người không có nguy cơ xơ mỡ động mạch co thắt mạch vành. Tiên lượng tốt.
Ở người có nguy cơ xơ mỡ động mạch, co thắt mạch vành trên nền xơ mỡ động mạch.
Xác nhận có thiếu máu cơ tim:
EKG (chỉ giá trị trong cơn) ST chênh lên và quan trọng là sẽ biến mất khi cơn qua đi.
EKG gắng sức ít có giá trị làm xuất hiện dấu bất thường (nếu không có nền xơ mỡ động mạch).
Holter 24 giờ: rất hiệu quả vì bắt gặp lúc lên cơn rõ ràng.
Xác nhận có co thắt mạch vành:
Khi dùng nhóm ức chế calci: dấu hiệu đau ngực mất hoàn toàn.
Mạch vành đồ với Methergin (R): xuất hiện dấu co thắt.
Đau thắt ngực không ổn định
Thực tế, không có giới hạn rõ ràng giữa đau thắt ngực ổn định và đau thắt ngực không ổn định, cũng như không có giới hạn rõ ràng giữa đau thắt ngực không ổn định với nhồi máu cơ tim. Sự phân chia như trên nhằm giúp theo dõi và ứng xử dễ dàng hơn trong thực tế lâm sàng.
Những cơn đau thắt ngực xuất hiện với mức độ thường xuyên. Chúng xuất hiện trong những hoạt động gắng sức không lớn và thậm chí cả trong lúc nghỉ (đau thắt ngực không ổn định gần).
Những cơn đau thắt ngực xuất hiện với mức độ thường xuyên hơn. Chúng xuất hiện trong những hoạt động gắng sức không lớn, kéo dài hơn và không đáp ứng với thuốc giãn mạch vành tác dụng nhanh (đau thắt ngực nặng).
Điện tim: đoạn ST chênh xuống.
Việc xác định sẽ trở nên dễ dàng hơn nếu bệnh nhân có tiền căn về bệnh mạch vành hoặc có những yếu tố nguy cơ của bệnh lý thiếu máu cơ tim.
Mạch vành đồ: Việc chẩn đoán xác định có thể rất khó khăn khi các triệu chứng lâm sàng và điện tim không điển hình. Thật sự rất khó chẩn đoán phân biệt với viêm màng bao tim cấp, nhồi máu phổi, cũng như trường hợp đau ngực do nguyên nhân ngoài tim.
Ngoài ra, cũng thật sự khó phân biệt được giữa đau ngực không ổn định và trường hợp nhồi máu cơ tim cấp không có sóng Q (nhồi máu dưới nội tâm mạc). Trường hợp này thường dùng các xét nghiệm về men tim để chẩn đoán phân biệt.
EKG không quan trọng trong trường hợp này.
EKG gắng sức là chống chỉ định (cũng như với nghiệm pháp với Persantine).
Các xét nghiệm men tim: CPK, CPK-MB, SGOT, SGPT, LDH, Troponine - test.
Mạch vành đồ: rất quan trọng vì ảnh hưởng rất lớn vào điều trị.
Dựa vào nguyên nhân và cơ chế bệnh lý y học cổ truyền, bệnh lý thiếu máu cơ tim theo y học cổ truyền có thể được biểu hiện dưới những thể lâm sàng sau đây:
Thể Khí trệ huyết ứ
Đau vùng tim từng cơn (thưa thớt hoặc liên tục).
Chất lưỡi tím hay có điểm ứ huyết.
Mạch trầm, tế, sác.
Thể Can Thận âm hư
Đau ngực (nếu có) thường có tính chất hoặc co thắt, hoặc nhói như kim đâm.
Người dễ bị kích thích, cáu gắt.
Tình trạng uể oải, mỏi mệt thường xuyên.
Đau nhức mỏi lưng âm ỉ.
Hoa mắt, chóng mặt, ù tai, nặng đầu, đầu đau âm ỉ.
Cảm giác nóng trong người, bứt rứt, thỉnh thoảng có cơn nóng phừng mặt. Ngũ tâm phiền nhiệt. Ngủ kém. Có thể có táo bón.
Mạch trầm, huyền sác, vô lực.
Thể Đờm thấp
Đau ngực (nếu có) thường có tính chất như có một vật nặng đè chặn trên ngực. Thường kèm khó thở.
Người béo, thừa cân. Lưỡi dày to.
Bệnh nhân thường than phiền về triệu chứng tê nặng chi.
Thường hay kèm tăng Cholesterol máu. Mạch hoạt.
Thể Tâm Tỳ hư
Đau ngực (nếu có) thường có tính chất âm ỉ.
Trống ngực, hồi hộp. Ngủ ít, hay mê. Hay quên.
Mệt mỏi, gầy yếu. Ăn kém, đầy bụng, đại tiện lỏng.
Lưỡi nhạt bệu. Mạch tế nhược.
Thể Tâm Thận dương hư
Phù nề. Đau vùng ngực, hồi hộp.
Sợ lạnh, thích uống nước ấm. Đau bụng, tiêu chảy. Nước tiểu trong. Tự hãn. Tay chân lạnh.
Lưỡi nhạt, tím xám. Mạch vô lực.
Nếu nặng hơn, Tâm dương hư thoát sẽ có thêm chứng ra mồ hôi không ngừng.
Chân tay quyết lạnh. Môi xanh tím. Thở nhỏ yếu. Lưỡi tím xám. Mạch nhỏ, muốn hư tuyệt.
Điều trị và theo dõi
Suy vành mạn
Việc điều trị bệnh suy mạch vành mạn phải đảm bảo những nguyên tắc trị liệu sau:
Chống những yếu tố nguy cơ của xơ mỡ động mạch.
Làm giảm sự tiêu thụ oxy của cơ tim.
Chống tình trạng tạo mảng xơ vữa.
Tái lập tuần hoàn mạch vành.
Phòng chống những nguy cơ của xơ mỡ động mạch:
Ngưng hút thuốc lá (dưới mọi dạng). Công việc này đòi hỏi ý chí của bệnh nhân và các phương tiện hỗ trợ (cho từng cá nhân, tâm lý trị liệu cho cả nhóm).
Ổn định tình trạng tăng huyết áp.
Điều trị tăng Cholesterol máu:
Khi Cholesterol toàn phần > 200 mg% và LDL > 130 mg%.
Nếu LDL > 130 - 160 mg% và có < 2/5 yếu tố nguy cơ → điều trị bằng tiết chế (nhiều chất xơ + trái cây).
Nếu LDL > 130 - 160 mg%: có > 2/5 yếu tố nguy cơ → tiết chế + thuốc.
Nếu LDL > 160 mg%: có < 2/5 yếu tố nguy cơ → tiết chế + thuốc.
Tiết chế giảm Cholesterol là sửa đổi chế độ ăn từ nhiều chất béo no sang béo không no.
Thuốc y học hiện đại và y học cổ truyền điều trị giảm Cholesterol máu.
Làm giảm sự tiêu thụ oxy của cơ tim:
Sự tiêu thụ Oxy tùy thuộc nhịp tim, độ co bóp của cơ tim, kháng lực của huyết áp khi tim co (huyết áp động mạch), kháng lực của tâm trương (huyết áp tim trái cuối tâm trương). Thuốc y học hiện đại hoặc thuốc y học cổ truyền đều phải làm thế nào đáp ứng được yêu cầu này.
β- bloquants: rất hiệu quả vì làm giảm nhịp tim, giảm co cơ tim, giảm huyết áp tâm thu. Do đó, loại này đã được chứng minh phòng ngừa tốt tử vong sau NMCT.
Nhóm kháng Calci: có tác dụng làm giảm co cơ tim, giảm huyết áp. Cần chú ý nhóm Nifédipine vì làm tăng nhịp tim, có khả năng làm tăng nguy cơ thiếu máu. Dùng Tildiem (Diltiazem), Isoptine (Verapamil). Có thể phối hợp β- bloquants và nhóm kháng Calci vì rất hiệu quả chống đau ngực (bất lợi: làm chậm nhịp tim).
Nhóm dẫn xuất Nitrés: Đã dùng từ 100 năm trị đau thắt ngực vì giảm được áp lực làm đầy thất trái và như thế làm giảm tải tâm trương. Loại nhanh: dùng dưới lưỡi hoặc xịt (spray). Loại điều trị củng cố: có các dạng dùng ngoài da (không được dùng 24/24, nên bỏ ra lúc ngủ), dạng thuốc uống LP. Dùng phối hợp với β- bloquants trong suy mạch vành rất tốt. Cạnh nhóm này có nhóm Molsidomine (Corvasal 6 - 12 mg/ngày chia 3 lần, cơ chế giống như nhóm dẫn xuất Nitrés).
Việc đánh giá dựa trên kết quả nhịp tim chậm rõ ràng, hoặc ức chế được nhịp tim nhanh tăng trên 115 khi làm nghiệm pháp gắng sức. Cũng có thể kiểm tra hiệu quả với EKG gắng sức → nghiệm pháp gắng sức kéo dài hơn và làm được những bậc cao hơn của nghiệm pháp gắng sức.
Chống tình trạng tạo mảng xơ vữa:
Aspirine liều thấp 75 - 100 mg rất thông dụng. Đã được chứng minh làm giảm tần suất nhồi máu cơ tim.
YHCT tuy chưa được nghiên cứu về tác dụng dược lý này nhưng đã có kinh nghiệm quý với nhóm thuốc hoạt huyết, khử ứ như Đan sâm, Đào nhân, Hồng hoa, Ích mẫu. Những dược liệu như Ngưu tất, Nghệ thì có tác dụng gián tiếp thông qua tác dụng hạ Cholesterol máu.
Tái lập tuần hoàn mạch vành: thuộc lĩnh vực ngoại khoa:
Angioplastie coronaire.
Pontage aorto coronaire.
Co thắt mạch vành/thiếu máu cơ tim mạn
Trong cơn đau cấp, thường kết hợp thuốc với châm cứu, bấm huyệt.
Dùng thuốc:
Hai nhóm thuốc y học hiện đại có hiệu quả trong đau ngực do co thắt mạch vành tim:
Kháng Calci liều cao:
Adalate 40 - 80 mg/ngày.
Tildiem 240 - 480 mg/ngày.
Vérapamil 240 - 480 mg/ngày.
Nhóm dẫn xuất Nitrés:
Sử dụng nhóm tác dụng nhanh trong cơn đau cấp.
Sử dụng nhóm tác dụng chậm (khi kháng Calci kém hiệu quả).
Đối với thuốc y học cổ truyền, hiện nay chỉ ghi nhận những báo cáo về thuốc của Trung Quốc được sử dụng, chủ yếu là những dược liệu có tính chất hoạt huyết, khử ứ mạnh: loại thuốc phun sương “Tâm thống thể hàn” (chủ yếu thành phần có chứa Nhục quế, Hương phụ …), “Tâm thống thể nhiệt” (chủ yếu chứa Đơn bì, Xuyên khung …), có tác dụng không kém Nitroglycerin.
Ngoài ra còn có những báo cáo về sử dụng thuốc dạng tiêm (Đan sâm (IM, IV), Xuyên khung (IV), Nhân sâm, Mạch môn (IV)).
Dùng châm cứu:
Các huyệt thường dùng:
Chiên trung phối hợp Nội quan, Cự khuyết, Giản sử, Túc tam lý.
Dùng theo kinh nghiệm:
Day bấm điểm giữa đường nối 2 huyệt Tâm du và Quyết âm du bên trái trong 1 - 2 phút.
Bấm mạnh huyệt Nội quan phối hợp bệnh nhân thở sâu.
Ngoài cơn, nếu có dấu hiệu gợi ý của xơ mỡ động mạch vành tim, thì cách điều trị sẽ như phương pháp điều trị suy mạch vành mạn.
Đau ngực không ổn định
Thiếu máu cơ tim cấp không hoại tử (đau thắt ngực không ổn định) phải được điều trị và theo dõi trong một đơn vị săn sóc tích cực về tim mạch và bao gồm chống thiếu máu cơ tim, chống tạo mảng xơ vữa & phương pháp tái lập tưới máu.
Điều trị theo y học cổ truyền
Tác dụng trị liệu của những phương pháp y học cổ truyền, ngoài việc đáp ứng những yêu cầu trị liệu của bệnh lý cơ tim thiếu máu, còn chú ý đến tổng trạng chung của cơ thể, giải quyết những rối loạn thực vật kèm theo.
Thể Khí trệ huyết ứ
Pháp trị: Hành khí hoạt huyết.
Những bài thuốc và công thức huyệt sử dụng:
Bài thuốc gồm Qua lâu nhân 20g, Củ hẹ 12g, Đào nhân 12, Vỏ chanh già 12g.
Công thức huyệt sử dụng gồm: Nội quan, Tâm du, Chiên trung.
Châm loa tai: huyệt Tâm, Thần môn, Giao cảm.
Thể Thận âm hư
Pháp trị: Tư âm ghìm dương - Tư bổ Can Thận.
Những bài thuốc và công thức huyệt sử dụng:
Bài thuốc hạ áp (xuất xứ 30 công thức thuốc) gồm Thục địa 20g, Ngưu tất 10g, Rễ nhàu 20g, Trạch tả 10g, Mã đề 20g, Táo nhân 10g, Hoa hòe 10g.
Bài thuốc Lục vị địa hoàng hoàn gia quy thược gồm Thục địa 32g, Hoài sơn 16g, Sơn thù 8g, Đơn bì 12g, Phục linh 12g, Trạch tả 6g, Đương quy 12g, Bạch thược 8g. Bài này thường được sử dụng khi tăng huyết áp có kèm triệu chứng đau ngực, đau vùng tim.
Bài thuốc Bổ Can Thận gồm: Hà thủ ô 10g, Thục địa 15, Hoài sơn 15g, Đương quy 12g, Trạch tả 12g, Sài hồ 10g, Thảo quyết minh 10g.
Công thức huyệt sử dụng: Thận du, Phục lưu, Tam âm giao, Can du, Thái xung, Thần môn, Nội quan, Bá hội, A thị huyệt.
Thể Đờm thấp
Pháp trị: Hóa đờm trừ thấp.
Những bài thuốc và công thức huyệt sử dụng:
Bài thuốc hạ áp gia Đào nhân, Hồng hoa (xuất xứ 30 công thức thuốc) gồm Thục địa 20g, Ngưu tất 10g, Rễ nhàu 20g, Trạch tả 10g, Mã đề 20g, Táo nhân 10g, Hoa hòe 10g, Đào nhân 12g, Hồng hoa 8g.
Thể Tâm Thận dương hư
Pháp trị: Ôn thông Tâm dương (Tâm dương hư)
Hồi dương cứu nghịch (Tâm dương hư thoát).
Những bài thuốc y học cổ truyền có thể sử dụng:
Bài thuốc Lục vị hồi dương thang gồm Nhân sâm 8g, Phụ tử (chế) 8g, Đương quy 12g, Đan sâm 6g, Nhục quế 6g, Nhục thung dung 12g, Ba kích 12g.
Bài thuốc Sinh mạch tán gia vị gồm Nhân sâm 40g, Mạch môn 40g, Ngũ vị tử 7 hột, Hoàng kỳ 12g, Cam thảo 6g.
Bài thuốc Hồi dương cấp cứu thang gồm Phụ tử (chế) 4g, Can khương 4g, Nhục quế 4g, Nhân sâm 12g, Bạch truật 8g, Phục linh 8g, Ngũ vị tử 10 hột, Trần bì 4g, Cam thảo nướng 2g.
Công thức huyệt sử dụng: Đản trung, Cự khuyết, Khí hải, Quan nguyên, Cao hoang, Nội quan.
Thể Tâm Tỳ hư
Pháp trị: Bổ ích Tâm Tỳ.
Những bài thuốc y học cổ truyền có thể dùng gồm:
Bài thuốc Quy tỳ thang gia vị gồm Phục thần 3g, Toan táo nhân 3g, Long nhãn 3g, Nhân sâm 3g, Hoàng kỳ 3g, Bạch truật 3g, Đương quy 3g, Viễn chí 3g, Đại táo 2 quả, Mộc hương 2g, Cam thảo 1g, Uất kim 4g.
Công thức huyệt sử dụng: Đản trung, Cự khuyết, Tỳ du, Cách du, Thái bạch, Phong long, Nội quan.
Bài viết cùng chuyên mục
Y học cổ truyền bệnh tiểu đường (đông y)
Tỷ lệ mắc bệnh tiểu đường rất khác nhau bởi nó phụ thuộc vào các yếu tố: địa lý, chủng tộc, lứa tuổi, mức sống, thói quen ăn uống sinh hoạt và tiêu chuẩn chẩn đoán.
Y học cổ truyền mỡ máu tăng cao
Do mỡ dạng hoà tan trong huyết tương hoặc kết hợp mỡ hòa tan với albumin để vận chuyển đi toàn thân gọi là chứng mỡ.
Nhũ nham: ung thư vú
Tâm phiền táo trằn trọc, mặt mắt đỏ, đau vú dữ dội, chất lưỡi đỏ có nhiều ban đỏ ứ huyết, lưỡi thường không rêu, mạch huyền sác.
Bệnh học ngoại cảm lục dâm: nhiệt kết đại trường
Nhiệt tà có tính chất tổn khí và hao tân dịch, do đó sẽ ảnh hưởng đến chức năng truyền tống của phủ Đại trường cũng như hao tổn âm dịch của phủ Đại trường.
Tiết niệu lạc cảm nhiễm (viêm đường tiết nệu)
Pháp chữa: kiện tỳ bổ thận, chính tả song giải vừa phù chính vừa khu tà, phù chính sẽ có tác dụng khu tà, khư tà sẽ nâng cao khả năng phù chính, công bổ kiêm dùng.
Ngân tiết bệnh (bệnh vẩy nến)
Về điều trị, hiện nay còn rất nhiều khó khăn, chưa có phương pháp nào chữa khỏi bệnh vẩy nến nhưng có nhiều phương pháp làm sạch tổn thương vẩy nến bằng các thuốc tân dược.
Bệnh học và điều trị ngoại cảm ôn bệnh
Khí cũng là dạng vật chất cơ bản để tạo thành và duy trì sự sống của con người. Nó tồn tại trong các tổ chức tạng phủ và thông qua các hoạt động cơ năng của tạng phủ để phản ảnh ra ngoài.
Y học cổ truyền hen phế quản (đông y)
Có thể có triệu chứng báo hiệu hắt hơi, sổ mũi, ho khan, tức ngực, Chủ yếu khó thở thì thở ra, cơn nặng phải ngồi chống tay, há miệng thở, cơn có thể kịch phát hoặc liên tục.
Y học cổ truyền viêm teo niêm mạc dạ dày mạn tính
Viêm teo niêm mạc dạ dày mạn tính là bệnh danh của y học hiện đại. Y học cổ truyền thường mô tả chứng bệnh này trong các phạm trù.
Y học cổ truyền nhiễm trùng tiết niệu (đông y)
E. Coli chiếm 80% trong các nhiễm trùng tiểu không do thủ thuật niệu khoa, không do bất thường giải phẫu học hệ niệu và không do sỏi.
Bệnh học ngoại cảm lục dâm: phong nhiệt phạm phế
Nhiệt tà là dương tà có tính chất làm hao khí và tổn âm dịch. Đồng thời, Phong và Nhiệt tà lại có tính chất tương trợ cho nhau nên thể bệnh rất mạnh, lúc đó nhiệt làm bức huyết.
Bệnh học ngoại cảm lục dâm: can đởm thấp nhiệt
Đau vùng hông sườn hoặc các triệu chứng ở bộ phận sinh dục, vùng quản lý của Can mang tính chất Thấp và Nhiệt.
Vị nham: ung thư dạ dày
Bản chất bệnh thuộc về bản hư tiêu thực, phương pháp trị liệu thường phải kết hợp chặt chẽ giữa phù chính với trừ tà, nhằm kéo dài đời sống.
Y học cổ truyền liệt mặt nguyên phát (đông y)
Sau khi rời thân não, dây thần kinh mặt, có kèm theo dây phụ Wrisberg, động mạch và tùng tĩnh mạch, chạy xuyên qua xương đá trong một ống xương: vòi Fallope.
Thống kinh: điều trị bằng y học cổ truyền
Đau bụng kinh là sự ngăn trở vận hành khí và huyết. Vì kinh nguyệt là do huyết hóa ra, huyết lại tùy vào khí để vận hành, do đó khi khí huyết hòa thuận, sung túc thì không gây đau bụng khi hành kinh.
Y học cổ truyền thoái hóa khớp xương
Thoái hóa khớp là bệnh của toàn bộ thành phần cấu tạo khớp như sụn khớp, xương dưới sụn, bao hoạt dịch, bao khớp, thường xảy ra ở các khớp chịu lực nhiều.
Tâm giao thống (xơ vữa động mạch vành)
Ngực đầy tức, đau trước ngực tâm quí, đoản khí, sắc mặt nhợt nhạt, gầy gò, vô lực, sợ lạnh, chi lạnh, tự hãn, ngủ không yên, ăn kém, tiểu tiện trong dài, đại tiện lỏng nát, lưỡi bệu nhợt mềm.
Thống phong (bệnh goutte)
Để cân bằng, hàng ngày acid uric được thải trừ ra ngoài, chủ yếu theo đường thận và một phần qua đường phân cùng với các đường khác 200 mg.
Bệnh học ngoại cảm thương hàn
Thái dương kinh đi ở lưng, song song với Đốc mạch. Đốc mạch là tổng các kinh dương, là bể của dương mạch, tương thông với Thái dương.
Bệnh học ngoại cảm lục dâm: thấp nhiệt đại trường
Tính chất nhiệt tà làm tổn khí và hao tân dịch. Tính chất của Nhiệt tà làm trở trệ khí, Khi 2 yếu tố này liên kết nhau thì 1 yếu tố gây bạo chú, ói ỉa, 1 yếu tố gây trở trệ như mót rặn.
Y học cổ truyền viêm não tủy cấp (hội chứng não cấp)
Tà phạm vệ khí (thể não)Phát sốt, sợ rét hoặc không, đau đầu, miệng khát, phiền táo, cổ cứng, co giật, đầu và rìa lưỡi đỏ, rêu lưỡi trắng mỏng hoặc vàng mỏng; mạch phù sác.
Y học cổ truyền bại não (đông y)
Mặc dù bất thường về vận động là dấu hiệu nổi bật nhất, nhưng rất thường gặp kèm theo những sa sút về trí thông minh, về phát triển tình cảm, ngôn ngữ và nhận thức.
Bệnh học ngoại cảm lục dâm: hàn trệ can mạch
Kinh Can, trong lộ trình ở vùng bẹn, vòng quanh bộ phận sinh dục, qua bụng dưới tản ra 2 bên chânm hàn tà xâm phạm Can mạch làm kinh khí ngưng trệ nên có biểu hiện đau bụng, sán khí.
Bệnh học ngoại cảm
Bệnh ngoại cảm bao gồm tất cả các bệnh có nguyên nhân từ môi trường khí hậu tự nhiên bên ngoài; do khí hậu, thời tiết của môi trường bên ngoài trở nên thái quá.
Rối loạn kinh nguyệt: sinh lý bệnh và cơ chế bệnh sinh theo y học cổ truyền
Rối loạn kinh nguyệt là những biểu hiện bất thường của kinh nguyệt về thời gian, tần số và lượng máu mất trong ngày hành kinh, cùng với những triệu chứng khác kèm theo.