Ngải tư bệnh (HIV, AIDS)

2013-07-25 10:01 AM

Chính khí hư dễ dẫn đến ngoại tà, tà độc phục cảm và dẫn đến chính hư tà thực thì bệnh tình càng trở nên nghiêm trọng và dẫn đến tử vong.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Đại cương

Theo y học hiện đại

Theo y học hiện đại, AIDS là tổng hợp các triệu chứng gây ra bởi sự suy giảm hệ thống miễn dịch, đặc biệt do độc tố ngải tư bệnh (HIV).

Năm 1981 ,người ta phát ra bản chất của bệnh là một loại bệnh truyền nhiễm phạm vi rộng, lan truyền nhanh, bệnh biến đa dạng, phòng và điều trị đều không kết quả rõ, bệnh phát triển toàn cầu, tỷ lệ tử vong cao ảnh hưởng rất lớn đến kinh tế xã hội.

Trên lâm sàng, HIV gây tổn hại chủ yếu ở hệ thống miễn dịch của cơ thể, xuất hiện tính chất đặc thù liên tục sự suy tổn miễn dịch tế bào, từ đó dẫn đến nhiều cơ quan, tạng phủ phát sinh điều kiện thuận lợi cho nhiễm trùng và ác tính hóa. Trong lâm sàng, người ta có thể chia ra 4 loại: thể phế, thể thần kinh trung ương, thể vị trường, thể phát sốt không rõ nguyên nhân.

Cơ chế bệnh sinh của ngải tư bệnh là cơ thể người sau khi đã cảm nhiễm HIV thì hệ thống miễn dịch bị suy giảm hoặc khuyết hãm độc tố HIV và HIV thừa cơ xâm lấn tế bào T hỗ trợ (TH, TCD4) tạo thành một lượng lớn tế bào T bị cảm nhiễm và phá hoại (vỡ hạt); nghiêm trọng hơn là làm tổn hại đến công năng miễn dịch của cơ thể, làm cho sức đề kháng của cơ thể giảm sút đối với tất cả các tác nhân gây bệnh( nhiễm trùng, vi khuẩn, ký sinh trùng);từ đó phát sinh bệnh cơ hội do viêm nhiễm và thũng lưu (ác tính hóa).

Theo y học cổ truyền

Trung y căn cứ vào đặc điểm bệnh biến qui về các phạm trù chứng bệnh “Thấp ôn “, “Ôn dịch “, “Hư tổn“. Nguyên nhân gây bệnh là người bệnh lao động quá sức, ham muốn quá độ dẫn đến tổn thương thận tinh, dịch độc tà khí tự xâm nhập vào cơ thể; hoặc tỳ vị bất kiện, sinh hóa chi nguyên, khí - huyết bất túc, dịch độc cũng có thể thừa cơ mà nhập. Thời kỳ đầu chính hư tà thực, phần nhiều biểu hiện triệu chứng của tà phạm phế; tiếp sau là tà khí vào sâu có thể thấy vệ khí, doanh khí đồng bệnh, thậm chí là tà hãm tâm doanh. Do ở dịch độc thao liệt chính khí tiêu hao lớn, khí - huyết tân dịch đều bất túc nên có thể xuất hiện các loại thực chứng của: thận hư, tỳ hư, phế hư khác nhau.

Chính khí hư dễ dẫn đến ngoại tà, tà độc phục cảm và dẫn đến chính hư tà thực thì bệnh tình càng trở nên nghiêm trọng và dẫn đến tử vong.

Chẩn đoán

Dựa vào bệnh sử

Có tiếp xúc với người bị nhiễm HIV/AIDS hoặc có quan hệ tình dục với người bị nhiễm HIV/AIDS hoặc là có dùng các dụng cụ truyền máu, truyền dịch, dịch thay thế máu.

Những triệu chứng chính khi cảm nhiễm cấp tính

Có phát sốt, bất thích, bì chẩn, đau khớp và toàn thân nổi hạch limpho. Sau đó triệu chứng biến mất, bệnh nhân chuyển thành trạng thái vô chứng trạng, kháng thể kháng HIV dương tính. Thời kỳ này có thể kéo dài 2 - 10 năm, trong đó khoảng 25% người bệnh có thể phát sinh ngải tư bệnh với biểu hiện là phát sốt, thể trạng giảm sút, mệt mỏi vô lực, giữa đêm tự hãn, ho khái thấu, iả chảy mãn tính khoảng 1 tháng trở lên, miệng có mụn lở loét, toàn thân phát hạch sưng to, bì chẩn (nổi mụn ngoài da), nghiêm trọng hơn là vỡ mủ lở loét. Xét nghiệm máu thấy: tế bào limpho giảm thấp, tế bào bạch cầu giảm thấp, thiếu máu... Thời kỳ sau, gọi là thời kỳ toàn phát, có thể xuất hiện tất cả các triệu chứng nói trên tạo điều kiện thuận lợi cho những viêm nhiễm và những u ác tính phát triển.

Kiểm tra xét nghiệm kháng thể kháng HIV trong huyết thanh

Tế bào limpho số lượng thấp, tỉ lệ CD4 / CD8 < 1.

Xét nghiệm miễn dịch gắn men ELISA (+) (enzyme linked immunosorbert assay).

Western Blot (+) phát hiện nhiều loại kháng nguyên khác nhau do trọng lượng phân tử (P24, gp41, gp120/160).

Tế bào CD4 giảm thấp, hạch limpho sưng to ở toàn thân, triệu chứng bệnh lý của hệ thống thần kinh biểu hiện rõ, xuất hiện giảm sút về trí tuệ và năng lực, chức năng vận động của hệ thần kinh bị trở ngại.

Biện chứng và phương trị

Tà phạm vệ khí

Triệu chứng chính là phát sốt, đau đầu, nôn khan hoặc là nôn mửa, ăn kém, mệt mỏi, vô lực, đau họng khái thấu, ỉa chảy, phúc tả lưỡi nhợt, rêu trắng nhờn, mạch phù hoạt sác.

Pháp điều trị: Thanh nhiệt - giải độc - kiện tỳ lợi thấp.

Phương thuốc: “Ngân kiều tán” + “cam lộ tiêu độc đan” gia giảm.

Kim ngân hoa 15g.

Liên kiều 10g.

Kinh giới 9g.

Bạch khấu nhân 10g.

Cát cánh 6g.

Bán hạ 9g.

Trúc diệp tâm 6g.

Hạnh nhân 9g.

Hậu phác 6g.

Đạm đậu xị 12g.

Hoắc hương 9g.

Sinh cam thảo 6g.

Đồng thời cho uống “cam lộ tiêu độc đan” gia giảm ( 9g chia 2 lần: sáng, tối ). Nếu ăn uống kém hoặc là sau khi ăn không tiêu hóa được thì thêm : sơn tra, mạch nha, cốc nha, mỗi thứ đều 10g. Nếu ngũ tâm phiền nhiệt, miệng khát nửa đêm về sáng, sốt giảm thì có thể dùng “uy tiên thang” gia giảm.

Khí doanh (huyết) lưỡng phạp

Bệnh nhân sốt cao liên tục không lui, khái huyết, nôn ra máu, hoặc là phát ban lờ mờ, đầu thống, choạng vạng, phiền táo, thất miên ; hoặc là mệt mỏi, vật vã, đại tiện lỏng nát; hoặc là ỉa ra máu hoặc là tiện bế, lưỡi dáng, rêu vàng khô hoặc là xám đen, mạch huyền sác.

Phương điều trị: Khí doanh lưỡng thanh - lương huyết giải độc.

Phương thuốc: “Thanh ôn bại độc ẩm” gia giảm, hợp dụng “Tử tuyết đan”.

Sơn chi 10g.

Hoàng cầm 10g.

Hoàng liên 6g.

Chi mẫu 10g.

Sạ can 10g.

Sinh địa 5g.

Đan bì 10g.

Xích thược 10g.

Huyền sâm 10g.

Liên kiều 12g.

Trúc diệp 5g.

Cam thảo 5g.

Thủy ngưu giác phấn ( bột sừng trâu ) 3g , hoà với nước sôi uống.

Sinh thạch cao 60g , sắc trước.

“Tử tuyến đan” dùng thêm 0,5g uống trong một ngày.

Nếu như thần chí không minh mẫn hoặc là lúc tỉnh, lúc mê hoặc là loạn ngôn, nói sảng, co giật có thể dùng thêm “An cung ngưu hoàng hoàn phối hợp với “câu đằng ẩm”.

Bài thuốc “câu đằng ẩm” có các vị thuốc sau:

Câu đằng 10g.

Địa long 10g.

Đan bì 10g.

Toàn yết 10g.

Đẳng sâm 15g.

Thiên ma 10g.

Bản lam căn 15g.

Xích thược 10g.

Linh dương giác 0,10g dạng bột uống ngoài.

Mỗi ngày sắc một thang chia làm hai lần uống.

Ngoài ra có thể uống thêm “An cung ngưu hoàng hoàn” dùng từ 1 - 2 viên một lần, mỗi ngày uống từ 2 - 3 lần.

Phế khí âm lưỡng hư

Biện chứng: Phát sốt, ho khan, vô đàm hoặc đàm có máu khí đoản, hung thống, khẩu can hầu thống, tư hãn, rêu lưỡi vàng mỏng hoặc hóa lục hoặc không rêu, mạch tế sác.

Pháp trị: Bổ khí ích âm.

Thuốc: “Sinh mạch tán” gia vị:

Thái tử sâm 30g.

Mạch đông 15g.

Ngũ vị tử 10g.

Thiên hoa phấn 10g.

Hạnh nhân 10g.

Sinh địa 15g.

A giao 12g (hoà vào nước uống).

Gia giảm:

Nếu sợ lạnh, đau đầu thì gia thêm : sài hồ 10g, cát căn 15g.

Khí đoản ngực bĩ nặng thì gia thêm : sơn dược 10g, qua lâu vỏ 10g.

Ho nhiều thì gia thêm : hắc chi ma 20g, tri mẫu 10g.

Nếu tiếp tục kỳ nhiệt thì gia thêm : tri mẫu 10g, địa cốt bì 15g.

Nếu loa lịch ác hạch thì gia thêm : hạ khô thảo10g, huyền sâm 10g, hoàng dược tử 10g, miêu qua thảo 15g, mẫu lệ 15g.

Tỳ hư huyết hao

Triệu chứng: Phúc tả ỉa lỏng nước hoặc dịch nhày là niêm dịch, nôn mửa nôn khan, diện sắc bạch trắng vô hoa, gầy gò vô lực, bụng đau, ăn kém, khí đoản, lưỡi nhợt hình bệu, rêu trắng mỏng, mạch tế nhược.

Pháp trị: Bổ khí dưỡng huyết - kiện tỳ chỉ tả.

Phòng dược: Hợp pháp “qui tỳ thang” và “tứ quân tử thang”.

Sinh tây sâm 10g.

Bạch truật 10g.

Vân linh 15g.

Hoàng kỳ 15g.

Đương qui 15g.

Sơn dược 15g.

Sao bạch thược 12g.

Khiếm thực 15g.

Hồng táo 9 quả.

Khương bán hạ 10g.

Sao biển đậu 10g.

Sinh cam thảo 6.

Gia giảm:

Nếu tiết tả lâu ngày thì gia thêm: kha tử nhục 10g, liên tử 15g, nhục đậu khấu 10g.

Nôn mửa nhiều thì gia thêm : trúc nhự 10g. 

Nếu ho nhiều, khí đoản, gầy gò là phế tỳ lưỡng hư thì dùng thêm “lục quân tử thang” và “sinh mạch tán” gia giảm.

Nếu trên cơ sở tỳ hư lại kèm thêm thận tinh bất túc thì phải hợp phương “tứ quân tử thang”, “tứ thần hoàn” đồng thời “kim quỹ thận khí hoàn” hoặc “thập toàn đại bổ”.

Thận tinh hao tổn

Tiếp tục kỳ nhiệt hoặc triều nhiệt, gầy gò vô lực, khái thấu khí đoản, tự hãn, miệng khô lưỡi ráo, lưng gối đau mỏi, đàm ho có máu, lưỡi đỏ không rêu, mạch tế sác.

Pháp trị: Tư âm giáng hỏa.

Thuốc: “Tri bá địa hoàng thang” gia giảm.

Tri mẫu 15g.

Sinh địa 15g.

Sơn thù 10g.

Đan bì 10g

Hoàng bá 10g.

Ngũ vị tử 10g.

Sơn dược 15g.

Phục linh 15g.

Trạch tả 10g.

Mạch đông 10g.

Gia giảm:

Nếu lưỡi nhợt rêu trắng mỏng, mạch trầm tế thì gia thêm : bột tử hà sa 3g, thỏ ty tử 15g, nhục dung 10g.

Nếu triều nhiệt tư hãn nặng thì thêm : Tần cửu 10g, trích miết giáp 10 (sắc trước).

Nếu bì phu nổi mụn ngứa, lở loét thì gia thêm : địa phụ tử 10g, thổ phục linh 10g.

Lạnh giá, co giật thì gia thêm : linh dương giác 2g (xung).

Nghiệm phương

Tử hoa địa đinh 30g, hãm trà uống . Chỉ định dùng cho những người xét nghiệm huyết thanh có HIV1 (+).

Bản lam căn 50g, hạ khô thảo 30g, sắc hãm thay trà. Chỉ định dùng cho người xét nghiệm có HIV huyết thanh (+) mà chưa phát bệnh AIDS.

“Hoàng kỳ chích cam thảo thang”: Hoàng kỳ 20g, cam thảo 10g, tử thảo 15g, đan sâm 15g. Sắc nước uống, mỗi ngày một thang.

Tinh hoa lâm sàng

Theo Mag - Wolia Goh (Mỹ)

Tác giả đã cho 130 bệnh nhân AIDS uống thuốc thảo mộc dạng “trà thuốc”, trong đó: 43 bệnh nhân uống trong thời gian dưới 3 tháng; 33 bệnh nhân uống từ 3 - 5 tháng, 27 bệnh nhân uống từ 6 - 24 tháng (có 19 bệnh nhân bỏ thuốc). Số bệnh nhân còn lại tiến triển tốt: tỷ lệ viêm nhiễm giảm thấp, trọng lượng tăng; tỷ lệ tế bào CD4/CD8 tăng lên (bình thường CD4/CD8 = 1,91); số lượng hồng cầu tăng rõ rệt.

Theo báo cáo của Migamoto - Koji (tác giả Mỹ, 1996) : dùng bài thuốc “Tiểu sài hồ” điều trị cho 40 bệnh nhân đồng tính luyến ái bị nhiễm HIV (không có triệu chứng lâm sàng 30 bệnh nhân, có triệu chứng tương tự AIDS 4 bệnh nhân, AIDS 6 bệnh nhân) thấy có hiệu quả 65%. Các tác giả cho rằng dùng “tiểu sài hồ thang” có thể điều trị rộng rãi cho bệnh nhân nhiễm HIV trước khi phát bệnh (tài liệu của Ngô Bá Bình - Mỹ quốc dùng thuốc thảo mộc điều trị AIDS tiến triển).

Biện chứng luận trị aids bằng thuốc Trung y

Theo báo cáo của Vương Kỳ - tạp chí Trung y (Thượng Hải, 4/1995), từ tháng 2 năm 1992 đến 9 năm 1993, tác giả ứng dụng thuốc Trung y để điều trị 5000 lần cho bệnh nhân AIDS đã thu được kết quả nhất định. Tác giả cho rằng thuốc Trung y điều trị AIDS có những ưu thế rõ ràng.

Phương pháp:

Hư tắc bổ chi hoãn trị kỳ bản, lấy bổ khí kiện tỳ là chủ dùng bổ tỳ ích khí phục phương (xung tế); uống dạng tễ; mỗi ngày 1 tễ , chia 3 lần, uống trong 3 tháng.

Thực tắc tả chi, cấp trị kỳ tiêu tuỳ chứng chọn phương.

Bổ hư tả thực, tiêu bản kiêm trị. Đối với hư thực thác tạp dùng pháp tiêu bản đồng trị , dùng ích khí thanh nhiệt kiêm táo thấp, hoạt huyết lương huyết phục phương chi trị đã thu được hiệu qủa nhất định.

Biện chứng luận trị thuốc Trung y điều trị AIDS:

Theo báo cáo của Tô Kỳ, dùng thuốc Trung y điều trị cho 30 bệnh nhân AIDS tại một số nước Phi châu. Sau khi bệnh nhân đã được chẩn đoán xác định bằng lâm sàng và xét nghiệm, trong đó triệu chứng tương đương trùng hợp 6 bệnh nhân, phát bệnh AIDS 24. Căn cứ vào biện chứng y học cổ truyền tác giả chia số bệnh nhân làm 4 nhóm:

Nhóm phế vị âm hư: 11 bệnh nhân; chọn dùng “sâm linh bạch truật tán”, “bách hợp cố kim thang” gia giảm hoặc dùng “phù chính hợp tễ” giagiảm.

Nhóm tỳ vị hư tổn: 7 bệnh nhân; chọn dùng “bổ trung ích khí thang”, “tiểu sài hồ thang”, “ôn đởm thang” gia giảm và đều có thể dùng thêm “hương sa quân lục hoàn” và “nhân sâm qui tỳ hoàn”.

Nhóm tỳ thận lưỡng hao: 10 bệnh nhân; chọn dùng “tứ quân tử thang”, “tứ thần hoàn” gia giảm hoặc “phù chính hợp tễ” gia giảm.

Nhóm nhiệt thịnh đàm ẩm: 2 bệnh nhân; chọn dùng “an cung ngưu hoàng hoàn”, “câu đằng ẩm” gia giảm. Tất cả các bệnh nhân trên đều được ngừng thuốc tân dược. Hoàn toàn điều trị theo biện chứng y học cổ truyền hoặc cho dạng thuốc sắc nâng cao chính khí phối hợp thành phần chủ yếu của bài thuốc là: nhân sâm 12g, hoàng kỳ 20g, cam thảo 12g; Nếu nhấn mạnh chữa triệu chứng phải thêm : sài hồ 12g, cương tà 12g, phòng phong 15g.Tuỳ chứng gia giảm mỗi ngày 1 thang sắc lấy 200ml nước chia 2 lần uống (sáng, chiều).

Kết quả: dùng từ 6 - 230 ngày, triệu chứng một số bộ phận được cải thiện, máu thường qui chuyển biến tốt.

Tác giả cho rằng: Thời kỳ đầu của bệnh chính hư tà thực kết hợp phù chính và trừ tà, căn cứ vào thể chất, có thể lấy trừ tà làm chủ hoặc phù chính là chủ.

Nếu bản chất bệnh diễn biến phức tạp không thể nhất pháp nhất phương được thì phải ứng dụng linh hoạt tuỳ theo chứng phương trị.

Thời kỳ đầu và thời kỳ giữa thường có triệu chứng: phúc tả khái thấu, nga khẩu sang, phát sốt.

Giai đoạn này quan trọng là phải khống chế triệu chứng: phế kết hạch, ngược tật, nga khẩu sang, bần huyết (thiếu máu).

Tóm lại: Đánh giá bản chất bệnh thường dựa vào mạch; dựa vào biểu hiện ở lưỡi. Tuy nhiên, viêm nhiễm là hội chứng thường gặp và cũng thường là nguyên nhân dẫn đến tử vong. Vì vậy trên lâm sàng cần phân biệt giai đoạn bệnh hoãn hay cấp, cấp chữa “ tiêu” ( triệu chứng ); Hoãn chữa “bản” ( bổ chính khí ). Cần phải cân nhắc và tiên lượng nặng nhẹ, điều trị kịp thời nhằm kéo dài đời sống hoặc nâng cao chất lượng cuộc sống cho bệnh nhân. (Theo tài liệu Tô Thanh Luyện, Trung y tạp chí Thượng Hải, 1990; 27).

Bài viết cùng chuyên mục

Y học cổ truyền đau dây thần kinh tọa

Đau dây thần kinh tọa được định nghĩa là một hội chứng thần kinh có đặc điểm chủ yếu là đau dọc theo lộ trình của dây thần kinh tọa và các nhánh của nó, nguyên nhân thường do bệnh lý đĩa đệm ở phần thấp của cột sống.

Bệnh học thận bàng quang

Con người mới sinh ra đầu tiên là nhờ tinh khí tiên thiên mà sống và phát triển. Do đó Thận chủ tiên thiên.

Viêm khớp phong thấp tính (viêm khớp dạng thấp tiến triển)

Bản chất bệnh là phản ứng tự kháng nguyên - kháng thể, yếu tố thấp là một IgM; yếu tố thấp chiếm đa số ổ 80% các trường hợp, còn kháng thể kháng nhân chiếm 20%.

Bệnh học ngoại cảm lục dâm: tỳ vị thấp nhiệt

Ngoài tính chất của thử (nhiệt) tà là làm hao khí, tổn hao tân dịch và thấp tà làm trở trệ hoạt động của khí đưa đến ngăn trở hoạt động công năng của Ty Vị và làm hao tổn tân dịch của Vị

Chi khí quản háo suyễn (hen phế quản)

Hen phế quản dị ứng (90% ở tuổi < 30, 50% tuổi > 40). Do hít phải nấm, bụi nhà: ở Việt Nam nguyên nhân do bụi chiếm tới 60% trong số các nguyên nhân.

Bệnh học ngoại cảm lục dâm: vị nhiệt úng thịnh

Nhiệt tà phạm Vị làm tiêu hao tân dịch, khô khát, lở miệng, tiểu sẻn. Đồng thời, nhiệt tà làm bức huyết, chảy máu răng miệng, Vị lạc với Tâm, Thần minh nên gây bức rức, cuồng sảng.

Tiết niệu kết thạch (sỏi hệ thống tiết niệu)

Xét nghiệm nước tiểu có vi khuẩn niệu, tế bào mủ; định lượng can - xi niệu, systin niệu, axit uric niệu và tồn cặn oxalat, phosphat... Nếu có protein niệu là có viêm thận - bể thận.

Bì phu nham (ung thư da)

Bì phu nham phát sinh và phát triển chủ yếu là do hỏa độc ngoại xâm tỳ trệ mất kiện vận, thấp trọc nội sinh dẫn đến khí trệ hỏa uất

Tâm giao thống (xơ vữa động mạch vành)

Ngực đầy tức, đau trước ngực tâm quí, đoản khí, sắc mặt nhợt nhạt, gầy gò, vô lực, sợ lạnh, chi lạnh, tự hãn, ngủ không yên, ăn kém, tiểu tiện trong dài, đại tiện lỏng nát, lưỡi bệu nhợt mềm.

Bệnh học ngoại cảm lục dâm: phong hàn thúc phế

Phong là dương tà có đặc điểm biến hóa nhanh, là nhân tố hàng đầu của mọi bệnh, và thường kết hợp với các tà khác để gây bệnh.

Y học cổ truyền động kinh (đông y)

Đặc điểm chủ yếu của bệnh là lên cơn đột ngột, ngắn và tái phát nhiều lần, có những rối loạn về ý thức, cảm giác và chức năng thần kinh thực vật, giữa 2 cơn hoạt động của cơ thể là bình thường.

Tiết niệu lạc cảm nhiễm (viêm đường tiết nệu)

Pháp chữa: kiện tỳ bổ thận, chính tả song giải vừa phù chính vừa khu tà, phù chính sẽ có tác dụng khu tà, khư tà sẽ nâng cao khả năng phù chính, công bổ kiêm dùng.

Chức năng sinh lý tạng tâm (tâm bào, phủ tiểu trường, phủ tam tiêu)

Tâm thuộc Thiếu Âm, thuộc hành Hỏa, Tâm đứng đầu 12 khí quan nên gọi là Thiếu Âm quân chủ, Tâm có Tâm âm là Tâm huyết, Tâm dương là Tâm khí, Tâm hỏa.

Y học cổ truyền nhược năng tuyến giáp (viêm tuyến giáp Hashimoto)

Nguyên nhân, cơ chế bệnh sinh của nó là tinh thần uất ức kéo dài, tình chí thất thường, can mất điều hoà dẫn đến can khí uất kết, khí trệ huyết ứ.

Y học cổ truyền đại tràng kích thích (đông y)

Đau bụng với cảm giác quặn thắt và giảm sau khi đi xong, bệnh nhân thường táo bón hoặc xen kẽ với tiêu chảy và tiêu chảy nếu có thường xảy ra sau khi ăn phải một số thức ăn.

Y học cổ truyền viêm gan mạn (đông y)

Do ăn uống không điều độ, lao lực quá mức, kết hợp với uống rượu khiến cho công năng tiêu hóa của Tỳ Vị bị rối loạn sinh ra thấp.

Thoát cốt thư: viêm tắc động mạch chi

Giải phẫu bệnh lý: thấy lòng động mạch hẹp, thành dày lên, soi thấy trắng cứng, lớp cơ và nội mạc dày lên, có máu cục dính hay máu cục đã xơ hóa dính chặt vào thành động mạch.

Bệnh học và điều trị ngoại cảm ôn bệnh

Khí cũng là dạng vật chất cơ bản để tạo thành và duy trì sự sống của con người. Nó tồn tại trong các tổ chức tạng phủ và thông qua các hoạt động cơ năng của tạng phủ để phản ảnh ra ngoài.

Thống kinh: điều trị bằng y học cổ truyền

Đau bụng kinh là sự ngăn trở vận hành khí và huyết. Vì kinh nguyệt là do huyết hóa ra, huyết lại tùy vào khí để vận hành, do đó khi khí huyết hòa thuận, sung túc thì không gây đau bụng khi hành kinh.

Bệnh học ngoại cảm lục dâm: phong nhiệt phạm phế

Nhiệt tà là dương tà có tính chất làm hao khí và tổn âm dịch. Đồng thời, Phong và Nhiệt tà lại có tính chất tương trợ cho nhau nên thể bệnh rất mạnh, lúc đó nhiệt làm bức huyết.

Y học cổ truyền nhiễm trùng tiết niệu (đông y)

E. Coli chiếm 80% trong các nhiễm trùng tiểu không do thủ thuật niệu khoa, không do bất thường giải phẫu học hệ niệu và không do sỏi.

Y học cổ truyền viêm màng não do não mô cầu

Khả năng kháng thuốc của màng não cầu rất mạnh, ngoài khả năng kháng lại hầu hết các thuốc kháng sinh thông thường.

Biện chứng luận trị viêm tắc tĩnh mạch

Giai đoạn đầu cấp tính, bệnh nhân thấysợ lạnh, phát sốt, miệng khát muốn uống, chi sưng nề đau nhức rõ, khi đi lại thấy đau kịch liệt, đại tiện táo, tiểu tiện ngắn đỏ.

Đường niệu bệnh, tiêu khát (đái tháo đường)

Phiền khát uống nhiều, uống không giảm khát, miệng khô lưỡi ráo, cấp táo hay giận, bức nhiệt tâm phiền, niệu phiền lượng nhiều hoặc đại tiện táo kết, mạch huyền sác hoặc hoạt sác.

Hư lao: suy nhược cơ thể

Tâm quí kiên vong, huyền vựng, sắc mặt gầy bệch, khí đoản gầy gò, ngủ hay mơ, dễ tỉnh giấc,ăn không ngon miệng, hoặc bụng đau tiện lỏng, lưỡi nhợt, rêu trắng, mạch tế nhược.