- Trang chủ
- Thuốc A - Z
- Thuốc gốc và biệt dược theo vần A
- Avelox Dịch truyền: kháng sinh phổ rộng tác dụng diệt khuẩn
Avelox Dịch truyền: kháng sinh phổ rộng tác dụng diệt khuẩn
Dung dịch Avelox tiêm truyền tĩnh mạch được chỉ định trong điều trị bệnh viêm phổi mắc phải từ cộng đồng do những chủng vi khuẩn nhạy cảm, nhiễm trùng da và tổ chức dưới da phức, nhiễm trùng ổ bụng phức tạp.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Thành phần
Mỗi 250mL dung dịch: Moxifloxacin 400mg (dưới dạng hydrocloride).
Tá dược
Natri clorid Ph.Eur., USP, Ph.Jap., acid hydrocloric 1N, dung dịch natri hydroxyd 2N, nước pha tiêm Ph.Eur., USP, Ph.Jap.
Mô tả
Dung dịch trong suốt, màu vàng.
Đặc điểm dược lực học
Nhóm tác dụng dược lý: Kháng sinh nhóm quinolon, fluoroquinolon
Mã ATC: J01MA 14
Cơ chế tác dụng
Moxifloxacin là một 8-methoxyl-fluoroquinolon có phổ hoạt tính rộng và tác dụng diệt khuẩn. Moxifloxacin có phổ hoạt tính in vitro rộng chống lại các vi khuẩn Gram dương và âm, vi khuẩn kỵ khí, vi khuẩn bền vững với acid, vi khuẩn không điển hình như Mycoplasma spp, Chlammydia spp và Legionella spp.
Tác động diệt khuẩn là do can thiệp vào men topoisomerase II và IV. Các topoisomera là các men cần thiết kiểm soát hình học (topology) của DNA và giúp nhân đôi sao chép và sửa chữa DNA.
Các nghiên cứu trên mô hình nhiễm trùng động vật cho thấy thuốc có hoạt tính cao trong in vivo.
Sự đề kháng
Những cơ chế kháng thuốc làm bất hoạt các penicillin, cephalosporin, aminoglycosid, macrolid và tetracyclin không ảnh hưởng tới hoạt tính diệt khuẩn của moxifloxacin. Không có đề kháng chéo giữa moxifloxacin và những thuốc này. Không thấy kháng thuốc qua trung gian plasmid cho đến nay.
Người ta nhận thấy phân nửa C8-Methoxyl góp phần vào tăng hoạt tính và giảm chọn lọc của các đột biến kháng thuốc của các vi khuẩn Gram dương thấp hơn so với phân nửa C8-H. Sự có mặt của chất thay thế bicycloamine to lớn tại vị trí C7 ngăn cản sự bơm ra (efflux) chủ động, một cơ chế đề kháng với fluoroquinolone.
Các nghiên cứu trên in vitro đã chứng minh sự đề kháng với moxifloxacin phát triển chậm do đột biến nhiều bước. Chỉ một tỷ lệ kháng thuốc rất thấp được chứng minh (10-7-10-10). Khi vi trùng tiếp xúc nhiều lần với moxifloxacin ở nồng độ dưới MIC cho thấy chỉ làm tăng nhẹ các giá trị MIC.
Sự kháng thuốc chéo giữa các quinolone cũng đã được theo dõi. Tuy nhiên, một số vi khuẩn gram dương và vi khuẩn kỵ khí kháng các quinolone khác vẫn còn nhạy cảm với moxifloxacin.
Tác dụng lên quần thể vi khuẩn đường tiêu hoá ở người
Trong 2 nghiên cứu trên người tình nguyện, thấy có các thay đổi của chủng vi khuẩn thường trú ở ruột dưới đây sau khi uống moxifloxacin: E.Coli, Bacillus spp., Bacteroides vulgatus, Enterococci và Klebsiella spp. bị giảm đi cũng như các vi khuẩn kỵ khí khác như Bifidobacterium, Eubacterium và Peptostreptococcus. Các thay đổi này trở về bình thường trong vòng 2 tuần. Không tìm thấy toxin của Clostridium difficile.
Tần suất kháng thuốc mắc phải có thể thay đổi theo vùng địa lý và theo thời gian đối với một số chủng vi khuẩn. Thông tin về kháng thuốc tại các địa phương cần được chú ý, đặc biệt là khi điều trị cho các nhiễm trùng nặng. Các thông tin ở trên là chỉ dẫn về khả năng vi khuẩn có thể nhạy cảm đối với moxifloxacin.
So sánh các chỉ số đại diện Dược lực học/Dược động học cho sử dụng moxifloxacin theo đường tiêm truyền và đường uống với liều đơn 400 mg Avelox.
Đối với những bệnh nhân phải nằm viện, các thông số AUC/MIC90 thường lớn hơn 125 và Cmax/MIC90 nằm trong khoảng 8-10 được dự báo cho chữa khỏi về lâm sàng (theo Schentag). Đối với những bệnh nhân điều trị ngoại trú, các thông số đại diện này thường nhỏ hơn, ví dụ như AUC/MIC90 lớn hơn 30-40 (theo Dudley và Ambrose).
Nhóm đối tượng bệnh nhân đặc biệt
Bệnh nhi.
Nghiên cứu lâm sàng ở bệnh nhiễm khuẩn ổ bụng phức tạp (cIAI)
Độ an toàn của moxifloxacin ở bệnh nhi 3 tháng đến <18 tuổi (tuổi trung bình 12±4 năm) đã được nghiên cứu trong một nghiên cứu ngẫu nhiên, mù đôi, đối chứng với thuốc có hoạt tính trong cIAI bao gồm viêm ruột thừa bị thủng, áp xe và viêm phúc mạc. Hiệu quả là mục tiêu nghiên cứu phụ. Các bệnh nhân được sử dụng nối tiếp moxifloxacin tiêm tĩnh mạch/uống hoặc ertapenem tiêm tĩnh mạch sau đó uống amoxicillin/clavulanate trong 5-14 ngày (trung bình 9 ngày với khoảng giới hạn từ 1-24 ngày).
Mục tiêu chính của thử nghiệm này là đánh giá độ an toàn của moxifloxacin tập trung vào độ an toàn cho tim và cơ xương. Nghiên cứu này thu nhận 458 bệnh nhân, 301 bệnh nhân trong số đó đã được điều trị với moxifloxacin, 150 bệnh nhân điều trị đối chứng với thuốc có hoạt tính và 7 bệnh nhân không điều trị với thuốc nghiên cứu.
Các biến cố bất lợi được báo cáo trên hơn một nửa số bệnh nhân ở cả hai nhóm điều trị. Tỷ lệ (incidence) bệnh nhân có ít nhất một biến cố bất lợi tương tự giữa các nhóm điều trị. Các biến cố bất lợi thường xảy ra với moxifloxacin là kéo dài khoảng QT, tiêu chảy và viêm tĩnh mạch. Không có bệnh tim mạch hoặc tử vong có thể quy cho là do kéo dài khoảng QT xảy ra với moxifloxacin. Ngừng thuốc nghiên cứu do một biến cố bất lợi được báo cáo 5,3% (16/301) của bệnh nhân điều trị với moxifloxacin so với 1,3% (2/150) của bệnh nhân so sánh. Đặc điểm các biến cố bất lợi của moxifloxacin hoặc thuốc so sánh là như nhau trên tất cả các nhóm tuổi được nghiên cứu.
Tỉ lệ các biến cố bất lợi trên cơ xương là 4,3% (13/301) trong nhóm điều trị bằng moxifloxacin so với 3,3% (5/150) ở những bệnh nhân được điều trị bằng thuốc so sánh. Phần lớn các biến cố bất lợi trên cơ xương được báo cáo từ 12 đến 53 tuần sau khi bắt đầu điều trị, và tất cả các biến cố đã được xử trí (hết các các dấu hiệu và triệu chứng lâm sàng) lúc kết thúc nghiên cứu.
Tiêu chí đánh giá phụ của thử nghiệm là đánh giá đáp ứng lâm sàng và vi khuẩn trong lần khám thử nghiệm chữa khỏi (test-of-cure). Các đáp ứng lâm sàng và vi khuẩn ở trẻ em được điều trị với moxifloxacin đều nằm trong phạm vi các quan sát thấy ở người lớn với cIAI.
Phân tích mô tả của sự thành công lâm sàng tổng thể ở lần khám thử nghiệm chữa khỏi (28-42 ngày sau khi kết thúc điều trị) trên tất cả các bệnh nhân được điều trị với thuốc nghiên cứu (dân số về an toàn).
Độ an toàn của moxifloxacin sau khi sử dụng một liều đơnTính an toàn và dung nạp của moxifloxacin được nghiên cứu ở bệnh nhi từ 3 tháng đến ≤14 tuổi (tuổi trung bình của 5±4 tuổi) trong một thử nghiệm không ngẫu nhiên, không mù, không đối chứng, đa trung tâm. Nghiên cứu được thiết kế để đánh giá dược động học của moxifloxacin. Tổng cộng có 31 bệnh nhân sử dụng moxifloxacin truyền tĩnh mạch 1 giờ ở liều lượng khác nhau.
Các biến cố bất lợi được báo cáo trong hơn một nửa tổng số bệnh nhân. Tỷ lệ bệnh nhân có ít nhất một biến cố bất lợi (liên quan và không liên quan đến thuốc) cao hơn ở trẻ nhỏ và trẻ mới biết đi so với trẻ em và thanh thiếu niên. Các biến cố bất lợi thường gặp nhất phân loại theo cơ quan MedDRA là rối loạn chung và các phản ứng tại chỗ dùng thuốc, rối loạn tiêu hóa, và các rối loạn da và mô dưới da. Không có sự gia tăng các biến cố bất lợi liên quan đến thuốc khi sử dụng liều cao hơn của moxifloxacin. Không có bệnh tim mạch hoặc tử vong có thể quy cho là do kéo dài khoảng QT. Không có biến cố trên cơ xương được báo cáo đến 3 tháng tái khám.
Đặc điểm dược động học
Hấp thu và sinh khả dụng
Sau khi uống, moxifloxacin được hấp thu một cách nhanh chóng và gần như hoàn toàn. Sinh khả dụng tuyệt đối của thuốc đạt khoảng 91%.
Dược động học của thuốc tuyến tính trong giới hạn sử dụng một liều duy nhất từ 50-1200 mg cho đến liều 600 mg một lần/ngày trong 10 ngày. Nồng độ ổn định đạt được trong vòng 3 ngày. Sau khi uống liều 400 mg, nồng độ đỉnh ở mức 3,1mg/L đạt được trong trong 0,5-4 giờ sau khi uống. Nồng độ cao nhất và thấp nhất trong huyết tương (khi uống 1 liều 400 mg mỗi ngày) tương ứng là 3,2 và 0,6 mg/L.
Uống đồng thời moxifloxacin cùng với thức ăn làm kéo dài thời gian đạt tới nồng độ đỉnh trong xấp xỉ 2 giờ và làm giảm nhẹ nồng độ đỉnh trong huyết tương khoảng 16%. Mức độ hấp thu vẫn không thay đổi. Vì tỷ lệ AUC/MIC dự đoán nhiều nhất cho hiệu quả diệt khuẩn của quinolon, tuy nhiên tác dụng này lại không có liên quan về mặt lâm sàng. Vì vậy, Avelox có thể uống độc lập với bữa ăn.
Sau khi dùng một liều đơn 400 mg truyền tĩnh mạch trong vòng 1 giờ, nồng độ đỉnh trong huyết tương đạt được vào khoảng 4,1 mg/L vào lúc kết thúc thời gian truyền, tương ứng với tăng trung bình xấp xỉ 26% so với khi uống. Sự phơi nhiễm của thuốc, về mặt AUC ở giá trị xấp xỉ 39 mg*giờ/L chỉ cao hơn một chút so với 35 mg*giờ/L sau khi uống, phù hợp với tính sinh khả dụng tuyệt đối xấp xỉ 91%.
Sau khi tiêm tĩnh mạch nhiều lần (truyền tĩnh mạch trong 1 giờ) với liều 400 mg một lần/ngày, nồng độ đỉnh và đáy trong huyết tương ở tình trạng ổn định tương ứng ở vào khoảng 4,1 đến 5,9 và 0,43 đến 0,84 mg/L. Ở tình trạng ổn định, sự phân bố của thuốc trong khoảng thời gian giữa 2 liều là xấp xỉ 30% cao hơn sau khi dùng liều đầu tiên. Trên bệnh nhân, nồng độ ổn định trung bình là 4,4 mg/L quan sát được vào lúc kết thúc truyền tĩnh mạch trong 1 giờ.
Phân bố
Moxifloxacin được phân bố nhanh chóng đến các khoang ngoại bào. Sự phơi nhiễm thuốc về mặt AUC (AUCnorm = 6kg*giờ/L) là cao với thể tích phân bố ở tình trạng ổn định (Vss) xấp xỉ là 2L/kg. Nồng độ đỉnh trong nước bọt cao hơn nồng độ trong huyết tương có thể đạt được. Trong các thực nghiệm in vitro và ngoài cơ thể sống (ex vivo), trong khoảng từ 0,02 đến 2 mg/L, người ta xác định được là một protein gắn kết với xấp xỉ 45%, không phụ thuộc vào nồng độ của thuốc. Moxifloxacin chủ yếu gắn kết vào albumin huyết thanh. Do tỷ lệ gắn kết với protein thấp nên người ta quan sát thấy nồng độ đỉnh ở dạng tự do ở mức cao >10 lần nồng độ MIC.
Moxifloxacin đạt được nồng độ cao tại các mô như phổi (dịch biểu mô, đại thực bào phế nang, mô sinh học), các xoang (xoang hàm và xoang sàng, polip mũi) và các tổn thương viêm (dịch nốt phỏng), tại đó tổng nồng độ của thuốc vượt quá nồng độ trong huyết tương. Nồng độ thuốc cao ở dạng tự do đo được trong các dịch kẽ của cơ thể (nước bọt, trong cơ, dưới da). Bên cạnh đó, nồng độ thuốc cao cũng phát hiện thấy tại các mô và dịch trong ổ bụng và đường sinh dục của nữ.
Các nồng độ đỉnh và các tỷ số giữa nồng độ tại chỗ so với nồng độ huyết tương cho các mô đích khác nhau đã mang lại các kết quả có thể so sánh cho cả hai cách sử dụng thuốc sau một liều duy nhất 400 mg moxifloxacin.
Chuyển hoá
Moxifloxacin trải qua chuyển hóa sinh học Pha II và được đào thải qua con đường thận và mật/phân dưới dạng thuốc không chuyển hoá cũng như dạng phức hợp sulfo (M1) và glucuronid (M2). M1 và M2 là chất chuyển hóa duy nhất liên quan với người, cả hai đều là chất không có hoạt tínhvề mặt vi sinh học. Không quan sát thấy các tương tác về chuyển hóa dược động học với các thuốc khác đang ở giai đoạn chuyển hóa sinh học liên quan đến các enzyme Cytochrome P-450.
Không phụ thuộc vào đường dùng thuốc, cả 2 chất chuyển hóa M1 và M2 đều được tìm thấy trong huyết tương ở nồng độ thấp hơn so với nồng độ thuốc ban đầu. Các nghiên cứu tiền lâm sàng thích ứng được tiến hành với cả 2 chất chuyển hoá, vì thế loại trừ các khả năng gợi ý đến tính an toàn và tính dung nạp.
Thải trừ
Moxifloxacin được bài xuất từ huyết tương với thời gian bán huỷ trung bình xấp xỉ 12 giờ. Tổng thanh thải trung bình toàn thân sau khi dùng liều 400 mg vào khoảng 179 đến 246mL/phút. Độ thanh thải của thận được đo vào khoảng 24 -53mL/phút, gợi ý các ống thận đã tái hấp thu một phần thuốc tại thận. Sử dụng đồng thời với ranitidin và probenecid không làm thay đổi độ thanh thải thuốc ở thận.
Sự cân bằng giữa lượng thuốc đưa vào ban đầu và các chất chuyển hoá Pha II của moxifloxacin đã khôi phục lại gần như hoàn toàn, xấp xỉ 96-98% không phụ thuộc vào đường dùng và không có dấu hiệu của chuyển hoá do oxi hoá.
Người lớn tuổi
Dược động học của moxifloxacin không bị ảnh hưởng theo tuổi.
Giới tính
Có khoảng 33% có sự khác biệt về dược động học (AUC, Cmax) của moxifloxacin giữa nam giới và nữ giới. Sự hấp thu thuốc không bị ảnh hưởng theo giới tính. Sự khác biệt này đối với AUC và Cmax có thể quy cho các khác biệt về cân nặng cơ thể hơn là về giới tính. Điều này không được xem là có liên quan lâm sàng.
Sự khác biệt về chủng tộc
Có thể có sự khác biệt về chủng tộc khi thử nghiệm trên người da trắng, Nhật bản, da đen và các nhóm chủng tộc khác. Không phát hiện thấy có sự khác biệt về dược động học liên quan giữa chủng tộc về mặt lâm sàng.
Bệnh nhi
Dược động học của moxifloxacin được nghiên cứu sau khi sử dụng một liều đơn tiêm tĩnh mạch (i.v.), sử dụng (truyền 1 giờ) ở bệnh nhi tuổi từ 3 tháng đến <14 tuổi.
Những dữ liệu này được sử dụng để tính phác đồ liều uống và truyền tĩnh mạch cho một nghiên cứu lâm sàng Phase III ở bệnh nhi như được mô tả trong mục Dược lý - ''Đặc tính dược lực học''. Phân tích dược động học trên dân số từ các dữ liệu Phase III với điều trị bằng truyền tĩnh mạch và chuyển tiếp truyền tĩnh mạch sang đường uống khẳng định phác đồ liều dẫn đến phơi nhiễm moxifloxacin toàn thân có thể so sánh với mức phơi nhiễm ở bệnh nhân người lớn. Điều này vẫn trong phạm vi hiệu quả của điều trị kháng sinh dựa trên những đặc tính Dược lực học/Dược động học (AUC/MIC). Đối với bệnh nhân nhi <12 tuổi và nặng < 45kg sự chuyển đổi từ liều dùng ngày một lần sang liều ngày hai lần là phù hợp để tránh nồng độ đỉnh quá cao. Sinh khả dụng tuyệt đối của moxifloxacin được ước tính khoảng 86%.
Tổn thương chức năng thận
Dược động học của moxifloxacin không bị thay đổi đáng kể ở những bệnh nhân có tổn thương chức năng thận (kể cả khi độ thanh thải creatinine < 30mL/phút/1,73m2 diện tích cơ thể) và ở những bệnh nhân phải lọc máu mạn tính như thẩm tách máu và lọc màng bụng ngoại trú liên tục.
Tổn thương chức năng gan
Nồng độ của moxifloxacin trong huyết tương ở những bệnh nhân suy chức năng gan ở mức độ nhẹ đến nặng (Child Pugh A đến C) không thấy có các khác biệt liên quan đến lâm sàng khi so với những người tình nguyện khoẻ mạnh hay bệnh nhân có chức năng gan bình thường, tương ứng.
Dữ liệu an toàn tiền lâm sàng
Trong một nghiên cứu về tính dung nạp tại chỗ tiến hành trên chó cho thấy không có dấu hiệu của bất dung nạp tại chỗ khi tiêm theo đường tĩnh mạch. Sau khi tiêm vào động mạch, người ta nhận thấy có các thay đổi về viêm ở các mô quanh động mạch, gợi ý nên tránh tiêm moxifloxacin vào động mạch.
Khả năng sinh ung thư, gây đột biến
Mặc dù các nghiên cứu lâu dài theo quy ước để xác định khả năng gây ung thư của moxifloxacin chưa được thực hiện nhưng thuốc đã được kiểm tra về độc tính gen trong giới hạn in vitro và in vivo. Ngoài ra, thử nghiệm sinh học gia tốc đối với sinh ung thư trên người (thử nghiệm khởi đầu/thúc đẩy) đã được thực hiện trên chuột. Test Ames đã cho kết quả âm tính trên 4 chủng, trong thử nghiệm đột biến HPRT trên tế bào buồng trứng của giống chuột đồng Trung quốc và trên thử nghiệm UDS trên tế bào gan nguyên phát của chuột. Giống như với các quinolone khác, test Ames với TA 102 cho kết quả dương tính và test in vitro trên các tế bào v79 của chuột đồng Trung quốc cho các bất thường về nhiễm sắc thể ở các nồng độ cao (300 mcg/mL). Tuy nhiên, thử nghiệm trên nhân nhỏ in vivo ở chuột đã cho kết quả âm tính. Bên cạnh thử nghiệm in vivo, thì thử nghiệm chủ yếu gây chết trên chuột cũng cho kết quả âm tính. Điều này đưa đến kết luận rằng các kết quả âm tính trong in vivo phản ánh đầy đủ tình trạng về độc tính gen trên in vivo. Không tìm thấy bằng chứng của tính sinh ung trong thử nghiệm khởi đầu/thúc đẩy trên chuột.
Trên điện tim
Ở nồng độ cao, moxifloxacin là một chất ức chế làm chậm chỉnh lưu dòng kali ở tim, do đó có thể làm kéo dài khoảng QT. Các nghiên cứu về độc tính của thuốc tiến hành trên chó sử dụng liều uống ≥90 mg/kg cân nặng dẫn đến nồng độ trong huyết tương cao ≥16 mg/L gây kéo dài khoảng QT nhưng không gây rối loạn nhịp tim. Chỉ sau khi có một nồng độ tích luỹ quá cao gấp hơn 50 lần so với liều dùng ở người (>300 mg/kg) sau khi truyền tĩnh mạch, dẫn đến nồng độ trong huyết tương cao ≥200 mg/L (cao hơn 30 lần so với nồng độ có tác dụng điều trị sau khi truyền tĩnh mạch), đã thấy rối loạn nhịp thất có khả năng hồi phục và không gây tử vong.
Nhiễm độc ở khớp
Quinolone được biết là gây nên những thương tổn trên sụn ở những khớp nối hai xương lớn trên những động vật chưa trưởng thành. Liều uống thấp nhất của moxifloxacin gây độc tính ở khớp của chó chưa trưởng thành cao gấp 4 lần so với liều điều trị tối đa được khuyến cáo (400 mg ở người 50kg) tính theo mg/kg, với nồng độ trong huyết tương cao gấp 2 đến 3 lần nồng độ khi dùng liều điều trị được khuyến cáo.
Độc tính trên cơ quan sinh sản
Các nghiên cứu trên cơ quan sinh sản được tiến hành trên chuột, thỏ và khỉ cho thấy có sự vận chuyển qua nhau thai của moxifloxacin. Các nghiên cứu trên chuột (theo đường uống và truyền tĩnh mạch) và trên khỉ (theo đường uống) không cho thấy bằng chứng gây quái thai hoặc làm giảm khả năng sinh sản sau khi sử dụng moxifloxacin. Những bất thường về hệ xương khớp được quan sát trên thỏ được điều trị với liều 20 mg/kg cân nặng theo đường tĩnh mạch. Kết quả của nghiên cứu này phù hợp với những tác dụng đã biết của quinolone trên sự phát triển của hệ xương khớp. Tần suất sẩy thai ở khỉ và thỏ tăng lên khi dùng với liều điều trị trên người. Ở chuột, giảm cân nặng của thai nhi, tăng nguy cơ trước khi sinh, kéo dài thời gian mang thai, và tăng các hoạt động tự phát của những con đực và con cái đã được ghi nhận khi sử dụng liều cao gấp 63 lần liều khuyến cáo tính theo mg/kg với nồng độ thuốc trong huyết tương trong khoảng giới hạn liều điều trị ở người.
Chỉ định và công dụng
Dung dịch Avelox tiêm truyền tĩnh mạch được chỉ định trong điều trị bệnh viêm phổi mắc phải từ cộng đồng do những chủng vi khuẩn nhạy cảm.
Nhiễm trùng da và tổ chức dưới da phức tạp (bao gồm nhiễm trùng bàn chân do bệnh đái tháo đường).
Nhiễm trùng ổ bụng phức tạp (bao gồm cả các trường hợp nhiễm trùng do nhiều loại vi khuẩn như áp xe).
Nên xem xét cẩn thận các chỉ dẫn chính thức về sử dụng thích hợp các kháng sinh.
Liều lượng và cách dùng
Cách sử dụng
Truyền thuốc theo đường tĩnh mạch với thời gian trên 60 phút.
Dòng chữ “thời gian truyền trên 60 phút” phải được lưu ý trên bao bì sản phẩm.
Có thể truyền thuốc trực tiếp hoặc qua ống chữ T cùng với các dung dịch tiêm truyền tương thích.
Các dung dịch cùng tiêm truyền dưới đây cho thấy khi pha với dung dịch Avelox có thể tạo thành hỗn hợp ổn định trên 24 giờ ở nhiệt độ phòng, do đó có thể coi là tương thích với dung dịch Avelox để tiêm truyền: Nước cất pha tiêm, Natri Clorid 0.9%, Natri Clorid 1M, Glucose 5%, Glucose 10%, Glucose 40%, Xylit 20%, Dung dịch Ringer, Dung dịch Lactated Ringer.
Nếu dung dịch tiêm truyền Avelox được cho cùng với một thuốc khác, thì mỗi thuốc phải được truyền riêng rẽ.
Chỉ sử dụng dung dịch còn trong suốt.
Liều lượng quy định
Liều dùng (người lớn)
Liều khuyên dùng cho Avelox là 400 mg (1 viên nén bao phim hoặc 250 mL dung dịch tiêm truyền, tương ứng) một lần mỗi ngày cho các chỉ định nêu trên và không được dùng quá liều.
Thời gian điều trị
Nên xác định thời gian điều trị tùy theo mức độ nặng của chỉ định hay đáp ứng lâm sàng.
Liều thường khuyên dùng dưới đây là cho điều trị nhiễm trùng đường hô hấp trên và dưới:
Có thể khởi đầu đợt điều trị với tiêm truyền tĩnh mạch sau đó chuyển sang dùng viên uống khi có chỉ định trên lâm sàng.
Tổng thời gian điều trị khuyên dùng trong trường hợp điều trị nối tiếp viêm phổi cộng đồng (khởi đầu bằng truyền tĩnh mạch sau đó chuyển sang uống) là từ 7 đến 14 ngày.
Tổng thời gian điều trị nối tiếp cho nhiễm trùng da và tổ chức dưới da phức tạp (khởi đầu bằng truyền tĩnh mạch sau đó chuyển sang uống): 7-21 ngày.
Tổng thời gian điều trị nối tiếp cho nhiễm trùng ổ bụng phức tạp (khởi đầu bằng truyền tĩnh mạch sau đó chuyển sang uống): 5-14 ngày.
Không nên kéo dài quá thời gian điều trị được khuyến cáo.
Dung dịch tiêm truyền Avelox 400mg đã được nghiên cứu trong các thử nghiệm lâm sàng kéo dài đến 21 ngày điều trị (nhiễm trùng da và tổ chức dưới da phức tạp).
Thông tin bổ sung cho các bệnh nhân đặc biệt
Bệnh nhi
Hiệu quả của moxifloxacin ở trẻ em và thanh thiếu niên chưa được xác định. Dữ liệu hiện có được trình bày trong các mục Tác dụng ngoại ý, Dược lý - ''Đặc tính dược động học'' và ''Đặc tính dược lực học''. Không có khuyến cáo về liều lượng sử dụng.
Độ an toàn của Avelox ở trẻ dưới 6 tuổi chưa được xác định. Dữ liệu hiện có được trình bày trong các mục Tác dụng ngoại ý, Dược lý - ''Đặc tính dược động học'' và ''Đặc tính dược lực học'' và ''Dữ liệu an toàn tiền lâm sàng''.
Người lớn tuổi
Không cần phải chỉnh liều ở người lớn tuổi.
Các chủng tộc khác nhau
Không cần chỉnh liều trong các nhóm chủng tộc.
Suy gan
Không cần phải chỉnh liều ở bệnh nhân có tổn thương chức năng gan (xem phần Cảnh báo - ''Sử dụng cho bệnh nhân bị xơ gan'').
Suy thận
Không cần phải chỉnh liều trên bệnh nhân suy thận ở bất kỳ mức độ nào (kể cả khi độ thanh thải creatinine ≤ 30mL/phút/1,73m2) và trên bệnh nhân đang phải lọc máu kéo dài như thẩm tách máu và bệnh nhân thẩm phân phúc mạc liên tục ngoại trú.
Cảnh báo
Các phản ứng có hại nghiêm trọng có khả năng không hồi phục và gây tàn tật, bao gồm viêm gân, đứt gân, bệnh lý thần kinh ngoại biên và các tác dụng bất lợi trên thần kinh trung ương.
Các kháng sinh nhóm fluoroquinolon bao gồm Avelox có liên quan đến các phản ứng có hại nghiêm trọng có khả năng gây tàn tật và không hồi phục trên các hệ cơ quan khác nhau của cơ thể. Các phản ứng này có thể xuất hiện đồng thời trên cùng bệnh nhân. Các phản ứng có hại thường được ghi nhận gồm viêm gân, đứt gân, đau khớp, đau cơ, bệnh lý thần kinh ngoại vi và các tác dụng bất lợi trên hệ thống thần kinh trung ương (ảo giác, lo âu, trầm cảm, mất ngủ, đau đầu nặng và lú lẫn). Các phản ứng này có thể xảy ra trong vòng vài giờ đến vài tuần sau khi sử dụng thuốc Avelox. Bệnh nhân ở bất kỳ tuổi nào hoặc không có yếu tố nguy cơ tồn tại từ trước đều có thể gặp những phản ứng có hại trên.
Ngừng sử dụng thuốc Avelox ngay khi có dấu hiệu hoặc triệu chứng đầu tiên của bất kỳ phản ứng có hại nghiêm trọng nào. Thêm vào đó, tránh sử dụng các kháng sinh nhóm fluoroquinolon cho các bệnh nhân đã từng gặp các phản ứng nghiêm trọng liên quan đến fluoroquinolon.
Trong một số trường hợp, phản ứng quá mẫn hoặc phản ứng dị ứng xảy ra sau lần dùng thuốc đầu tiên và phải thông báo cho bác sĩ biết ngay lập tức.
Phản ứng phản vệ trong một số rất hiếm trường hợp có thể dẫn đến tình trạng shock gây nguy hiểm đến tính mạng, trong một số trường hợp có thể xảy ra sau lần dùng thuốc đầu tiên. Trong những trường hợp này, phải ngưng sử dụng Avelox và cần có điều trị nội khoa (ví dụ điều trị shock).
Avelox đã được chứng minh làm kéo dài khoảng QT trên điện tâm đồ ở một số bệnh nhân. Vì phụ nữ có khuynh hướng có khoảng QT lúc ban đầu dài hơn so với nam giới, do đó họ có thể nhạy cảm hơn với các thuốc gây kéo dài khoảng QT.
Người già có thể nhạy cảm hơn đối với những tác dụng lên khoảng QT có liên quan đến thuốc.
Do độ rộng của khoảng QT kéo dài có thể tăng lên theo nồng độ gia tăng của thuốc. Không nên vượt quá liều sử dụng và tốc độ truyền đã được khuyến cáo (400 mg trong thời gian 60 phút). Tuy nhiên đối với những bệnh nhân viêm phổi, người ta không thấy có sự tương quan giữa nồng độ của moxifloxacin trong huyết tương và kéo dài khoảng QTc. Sự kéo dài khoảng QT có thể dẫn tới tăng nguy cơ loạn nhịp thất bao gồm xoắn đỉnh. Không có trường hợp bệnh hoặc tử vong tim mạch có thể quy cho sự kéo dài khoảng QT khi điều trị với Avelox trong các nghiên cứu lâm sàng trên hơn 9.000 bệnh nhân, tuy nhiên một số bệnh có bản chất dễ mắc phải có thể làm tăng nguy cơ loạn nhịp thất.
Nên sử dụng thận trọng Avelox cho những bệnh sau do không loại trừ được tác dụng hiệp đồng làm kéo dài khoảng QT của moxifloxacin:
Bệnh nhân được điều trị đồng thời với các thuốc làm kéo dài khoảng QT như cisaprid, erythromycin, thuốc chống loạn thần hoặc các chống trầm cảm 3 vòng.
Bệnh nhân đang có tình trạng tiền loạn nhịp tim như nhịp chậm rõ trên lâm sàng hoặc thiếu máu cục bộ cơ tim cấp tính.
Ở những bệnh nhân xơ gan do không thể loại trừ khả năng những bệnh nhân này đã có trước khoảng QT kéo dài.
Phụ nữ và người già có thể nhạy cảm hơn với các thuốc kéo dài khoảng QT.
Đã có những báo cáo về các trường hợp viêm gan tối cấp có thể dẫn đến suy gan (bao gồm các trường hợp tử vong) với Avelox. Bệnh nhân cần được khuyến cáo liên hệ ngay với bác sỹ trước khi tiếp tục điều trị nếu xuất hiện các triệu chứng liên quan đến suy gan.
Đã có những báo cáo về các phản ứng da bỏng rộp như hội chứng Stevens-Johnson hoặc hoại tử biểu bì do nhiễm độc với Avelox. Bệnh nhân phải được khuyến cáo liên hệ ngay với bác sỹ trước khi tiếp tục điều trị nếu xuất hiện các phản ứng da và/hoặc niêm mạc.
Các cơn động kinh cũng có thể xảy ra khi điều trị với quinolon. Nên sử dụng thận trọng trên những bệnh nhân đã có hoặc nghi ngờ có các rối loạn của hệ thần kinh trung ương có thể dẫn tới cơn động kinh hoặc làm giảm ngưỡng của cơn động kinh.
Viêm đại tràng do sử dụng thuốc kháng sinh đã được báo cáo khi sử dụng những kháng sinh phổ rộng, bao gồm cả Avelox; do đó, điều quan trọng là phải nghĩ tới chẩn đoán này ở những bệnh nhân bị tiêu chảy nghiêm trọng đi kèm với sử dụng Avelox. Trong tình huống lâm sàng này, nên tiến hành ngay các biện pháp điều trị phù hợp. Chống chỉ định dùng các thuốc ức chế nhu động ruột trên những bệnh nhân tiêu chảy nghiêm trọng.
Cần thận trọng khi sử dụng Avelox cho bệnh nhân bị nhược cơ nặng vì có thể làm cho các triệu chứng của bệnh trầm trọng hơn.
Viêm gân và đứt gân có thể xảy ra khi điều trị bằng quinolon bao gồm cả Avelox, đặc biệt trên bệnh nhân lớn tuổi và những người đang điều trị đồng thời với corticosteroids, đã có báo cáo về các trường hợp xảy ra sau khi kết thúc điều trị vài tháng. Khi có những dấu hiệu đầu tiên của đau hay viêm, bệnh nhân cần ngưng thuốc và để chi bị ảnh hưởng nghỉ ngơi.
Quinolon cho thấy có thể làm bệnh nhân tăng nhạy cảm với ánh sáng. Tuy nhiên, chưa thấy rõ tính nhạy cảm với ánh sáng trong các thử nghiệm tiền lâm sàng và lâm sàng với Avelox. Ngoài ra, kể từ khi bắt đầu sử dụng cho đến nay chưa thấy các bằng chứng lâm sàng cho thấy Avelox gây các phản ứng nhạy cảm với ánh sáng. Mặc dù vậy, nên khuyên bệnh nhân tránh tiếp xúc nhiều với tia cực tím hoặc ánh sáng mặt trời.
Đối với bệnh nhân có bệnh viêm vùng chậu phức tạp (ví dụ liên quan đến áp xe vòi trứng-buồng trứng hay áp xe vùng chậu) cần xem xét đến điều trị tiêm truyền tĩnh mạch, không khuyến cáo viên nén bao phim Avelox 400mg.
Không khuyến cáo sử dụng moxifloxacin để điều trị nhiễm khuẩn do MRSA. Trong trường hợp nghi ngờ hoặc đã xác định nhiễm khuẩn gây ra bởi MRSA, nên bắt đầu điều trị bằng kháng sinh phù hợp.
Hoạt tính của moxifloxacin in vitro có thể làm ảnh hưởng đến cấy Mycobacterium spp. qua ức chế sự phát triển của vi khuẩn Mycobacteria, gây ra kết quả âm tính giả trên mẫu bệnh phẩm lấy từ bệnh nhân đang dùng Avelox.
Đã có báo cáo về các trường hợp bệnh đa dây thần kinh cảm giác hay vận động cảm giác, dẫn đến dị cảm, giảm cảm giác, rối loạn cảm giác hoặc yếu cơ ở bệnh nhân đang dùng kháng sinh nhóm quinolon, bao gồm cả Avelox. Nên khuyến cáo bệnh nhân đang điều trị Avelox thông báo cho bác sĩ trước khi tiếp tục điều trị nếu xảy ra các triệu chứng của bệnh dây thần kinh như đau, nóng bỏng, ngứa ran, tê hoặc tình trạng yếu cơ.
Các phản ứng tâm thần có thể xảy ra thậm chí sau lần đầu tiên sử dụng kháng sinh nhóm fluoroquinolon, bao gồm cả moxifloxacin. Rất hiếm gặp các trường hợp trầm cảm hoặc phản ứng loạn thần dẫn đến ý nghĩ tử tự và hành vi tự gây thương tích cho bản thân như cố gắng tử tự (xem mục Tác dụng ngoại ý). Trong trường hợp bệnh nhân mắc phải các phản ứng này, nên ngừng sử dụng Avelox và được thay thế bằng các biện pháp thích hợp. Nên thận trọng khi sử dụng Avelox ở các bệnh nhân loạn thần hoặc bệnh nhân có bệnh sử mắc bệnh tâm thần.
Do tần suất nhiễm Neisseria gonorrhoeae đề kháng fluoroquinolon lan rộng và đang tăng lên, nên tránh sử dụng moxifloxacin đơn trị liệu ở bệnh nhân có bệnh viêm vùng chậu, ngoại trừ có thể loại trừ được N. gonorrhoeae đề kháng fluoroquinolon. Nếu không loại trừ được N. gonorrhoeae đề kháng fluoroquinolon, nên cân nhắc phối hợp thêm một kháng sinh thích hợp thường có hoạt tính chống lại N. gonorrhoeae (như kháng sinh cephalosporin) vào phác đồ moxifloxacin theo kinh nghiệm.
Rối loạn đường huyết
Cũng như tất cả các fluoroquinolones, sự rối loạn đường huyết, bao gồm cả tăng và giảm đường huyết đã được báo cáo với Avelox. Ở bệnh nhân điều trị bằng Avelox, rối loạn đường huyết xảy ra chủ yếu ở bệnh nhân đái tháo đường lớn tuổi đang điều trị đồng thời với một thuốc hạ đường huyết dạng uống (v.d. sulfonylurea) hoặc với insulin. Ở bệnh nhân đái tháo đường, cần theo dõi chặt chẽ nồng độ đường huyết.
Thông tin về tá dược
Đối với những bệnh nhân cần hạn chế lượng natri đưa vào cơ thể (bệnh nhân suy tim xung huyết, suy thận, hội chứng thận hư v.v.) cần tính thêm đến tải lượng natri của dung dịch tiêm truyền. Đối với hàm lượng natri clorid của dịch truyền xem phần Thành phần.
Tác dụng trên khả năng lái xe và vận hành máy móc
Các fluoroquinolone bao gồm cả moxifloxacin có thể gây ảnh hưởng đến khả năng lái xe hoặc vận hành máy móc do các phản ứng của hệ thần kinh trung ương và rối loạn về thị lực.
Quá liều
Chỉ có một số giới hạn các dữ kiện về quá liều. Liều duy nhất lên tới 1200 mg và nhiều liều moxifloxacin 600 mg liên tục trên 10 ngày được sử dụng cho người khỏe mạnh mà không có tác dụng phụ đáng kể nào.
Trong trường hợp quá liều, cần thực hiện các biện pháp chăm sóc hỗ trợ bao gồm đo điện tim phải được chỉ định tuỳ thuộc vào tình trạng lâm sàng của bệnh nhân.
Sử dụng than hoạt ở giai đoạn hấp thu sớm sau khi uống thuốc có thể ngăn sự tăng quá mức phơi nhiễm toàn thân của moxifloxacin.
Chống chỉ định
Mẫn cảm với moxifloxacin hoặc các quinolon khác hoặc bất kỳ thành phần tá dược của thuốc.
Phụ nữ có thai và cho con bú.
Bệnh nhân có khoảng QT kéo dài.
Bệnh nhân có hạ kali máu chưa được điều chỉnh.
Bệnh nhân đang điều trị bằng các thuốc chống loạn nhịp nhóm IA (như quinidin, procainamid) hoặc nhóm III (như amiodaron, sotalol).
Bệnh nhân có bệnh sử bệnh gân cơ.
Sử dụng ở phụ nữ có thai và cho con bú
Phụ nữ có thai
Tính an toàn của Avelox khi sử dụng cho phụ nữ có thai chưa được nghiên cứu. Tổn thương khớp có phục hồi đã được mô tả ở những trẻ có sử dụng một vài loại quinolone, tuy nhiên, tác dụng này chưa được báo cáo là có xảy ra đối với bào thai có phơi nhiễm với thuốc. Các nghiên cứu trên động vật cho thấy thuốc có độc tính cho hệ sinh sản. Khả năng nguy cơ đối với con người chưa được biết.
Do vậy, chống chỉ định sử dụng Avelox cho phụ nữ mang thai.
Phụ nữ đang cho con bú
Cũng giống như các quinolone khác, Avelox cho thấy có khả năng gây nên những thương tổn ở sụn đối với những khớp gánh chịu lực ở những động vật chưa trưởng thành. Các bằng chứng tiền lâm sàng cho thấy một lượng nhỏ moxifloxacin có thể được tiết vào trong sữa người. Chưa có những dữ liệu đối với phụ nữ cho con bú. Do vậy, chống chỉ định sử dụng Avelox cho những bà mẹ đang cho con bú.
Tương tác
Các thuốc sau đây đã được chứng minh là không có các tương tác trên lâm sàng với Avelox: atenolol, ranitidin, các chế phẩm bổ sung canxi, theophyllin, cyclosporine, thuốc uống tránh thai, glibenclamid, itraconazol, digoxin, morphin, probenecid. Không cần phải điều chỉnh liều đối với những thuốc này.
Warfarin
Không ghi nhận có tương tác thuốc trong thời gian điều trị đồng thời với warfarin trên thời gian prothrombin và các thông số về đông máu khác.
Thay đổi về INR (International Normalized Ratio)
Các trường hợp tăng hoạt tính chống đông đã được báo cáo ở những bệnh nhân sử dụng các thuốc chống đông đồng thời với thuốc kháng sinh, bao gồm cả Avelox. Bệnh nhiễm trùng (và quá trình viêm kèm theo), tuổi tác và tổng trạng của bệnh nhân là các yếu tố nguy cơ. Mặc dù sự tương tác giữa Avelox và warfarin chưa được chứng minh trong các thử nghiệm lâm sàng, tuy nhiên nên tiến hành theo dõi INR và nếu cần thiết, nên điều chỉnh liều lượng của các loại thuốc uống chống đông máu cho phù hợp.
Digoxin
Dược động học của digoxin không bị ảnh hưởng đáng kể bởi moxifloxacin (và ngược lại). Sau khi dùng liều nhắc lại ở người tình nguyện khoẻ mạnh, moxifloxacin làm tăng nồng độ tối đa (Cmax) của digoxin lên xấp xỉ 30% ở tình trạng ổn định và không làm ảnh hưởng đến diện tích dưới đường cong (AUC) hoặc nồng độ thấp nhất.
Tương kỵ
Những dung dịch sau cho thấy có tương kỵ với dung dịch Avelox: NaCl 10%; NaCl 20%; NaHCO3 4,2% và NaHCO3 8.4%.
Tác dụng ngoại ý
Liệt kê các phản ứng bất lợi
Các phản ứng ngoại ý của thuốc (ADR) dựa trên tất cả các nghiên cứu lâm sàng với moxifloxacin 400 mg (chỉ dùng uống và nối tiếp [IV/uống]/tiêm tĩnh mạch) sắp xếp theo CIOMS III về các loại thường gặp (tổng quát n=17.951 trường hợp trong đó có 4.583 trường hợp từ các nghiên cứu trị liệu nối tiếp/tiêm tĩnh mạch, cho đến thời điểm tháng 5/2010) được liệt kê dưới đây:
Các ADR được liệt kê ở mức “hay gặp” được quan sát với tần suất < 3% ngoại trừ triệu chứng nôn và tiêu chảy.
Các ADR ghi nhận được từ các báo cáo sau khi đưa thuốc ra thị trường (cho đến thời điểm tháng 5/2010).
Trong mỗi nhóm phân loại theo tần suất, các tác dụng không mong muốn được sắp xếp theo thứ tự mức độ nghiêm trọng giảm dần. Các nhóm phân loại tần suất được định nghĩa như sau: Hay gặp (≥1/100 tới <1/10), Ít gặp (≥1/1.000 tới <1/100), Hiếm gặp (≥1/10.000 tới <1/1.000), Rất hiếm gặp (<1/10.000).
Những tác dụng không mong muốn sau đây thường xảy ra ở tần suất cao hơn trong nhóm bệnh nhân điều trị nối tiếp tiêm truyền tĩnh mạch/uống:
Thường gặp: tăng men Gamma-Glutamyl-Transferase
Không thường gặp: Nhịp nhanh thất, hạ huyết áp, giãn mạch, viêm đại tràng liên quan đến kháng sinh (trong một số rất hiếm trường hợp có thể gây biến chứng nguy hiểm đến tính mạng), lên cơn động kinh với các biểu hiện lâm sàng khác nhau (bao gồm những cơn động kinh cơn lớn), ảo giác, tổn thương chức năng thận (trong một số trường hợp do mất nước dẫn đến suy thận, đặc biệt ở những bệnh nhân lớn tuổi đã có rối loạn chức năng thận trước đó).
Thông tin bổ sung về các đối tượng bệnh nhân đặc biệt
Bệnh nhi.
Các biến cố bất lợi ở trẻ (>3 tháng đến <18 tuổi) được trích dẫn từ một nghiên cứu lâm sàng trên bệnh nhi bị nhiễm khuẩn trong ổ bụng phức tạp. Dữ liệu đã được thu thập từ tổng số 301 bệnh nhi điều trị bằng moxifloxacin để phân tích độ an toàn, trong đó có 15 bệnh nhân dưới 6 tuổi và 286 bệnh nhân tuổi từ 6-18.
Tổn thương sụn của các khớp chịu lực ở động vật chưa trưởng thành đươc biết là một ảnh hưởng của nhóm fluoroquinolones. Do đó, các biến cố cơ xương được theo dõi cẩn thận và theo dõi hơn 1 năm sau nghiên cứu. Các biến cố bất lợi liên quan đến cơ xương quan sát được trong nghiên cứu hầu như được đánh giá ở mức độ nhẹ, và được phân phối như nhau giữa nhóm moxifloxacin và các nhóm so sánh. Không có biến cố cho thấy bệnh sụn.
Moxifloxacin cho thấy có làm kéo dài khoảng QT trên điện tâm đồ ở một số bệnh nhân (xem mục Cảnh báo). Phân tích ECG ở bệnh nhi cho thấy kéo dài khoảng QT là phổ biến. Không có tử vong hay bệnh tim mạch có thể quy cho là do kéo dài QTc xảy ra khi điều trị bằng moxifloxacin trong các nghiên cứu trên bệnh nhi. Đối với các cảnh báo và thận trọng đặc biệt khi sử dụng liên quan đến kéo dài khoảng QT, xem mục Cảnh báo.
Tần số, loại và mức độ nặng của các phản ứng bất lợi ở trẻ em được cho là tương tự như ở người lớn. Phân tích dưới nhóm theo các nhóm tuổi không cho thấy bất kỳ các ngoại lệ liên quan đến tuổi. Tuy nhiên, số lượng trẻ em dưới 6 tuổi ít làm hạn chế sự phân tích các phản ứng bất lợi ở trẻ nhỏ.
Bảo quản
Không bảo quản thuốc trên 30 độ C. Không giữ thuốc trong tủ lạnh và tủ đá. Giữ thuốc nguyên trong hộp.
Trong điều kiện nhiệt độ lạnh (<15 độ C), thuốc có thể bị kết tủa, nó sẽ tan ra ở nhiệt độ phòng (15-25 độ C). Chính vì vậy không nên bảo quản thuốc tiêm ở trong tủ lạnh.
Nên kiểm tra chai thuốc xem có vẩn không trước khi sử dụng. Chỉ được sử dụng những chai mà dung dịch trong, không có vẩn.
Trình bày và đóng gói
Dung dịch tiêm truyền: hộp 1 chai 250mL.
Bài viết cùng chuyên mục
Actifed
Actifed! Actifed và xirô Actifed phối hợp một chất đối kháng thụ thể H1 của histamine và một tác nhân làm giảm sung huyết ở mũi.
Amantadine: thuốc ngăn ngừa và điều trị bệnh cúm
Amantadine có thể giúp làm cho các triệu chứng bớt nghiêm trọng hơn và rút ngắn thời gian để khỏi bệnh. Dùng amantadine nếu đã hoặc sẽ tiếp xúc với bệnh cúm có thể giúp ngăn ngừa bệnh cúm.
Arginine: Adigi, Agine B, Amp Ginine, Apharmincap, Arbitol, Arfosdin, bổ sung acid amin
Arginin, như các acid amin dibasic khác, kích thích tuyến yên giải phóng hormon tăng trưởng và prolactin, tuyến tuỵ giải phóng glucagon và insulin
Aciclovir
Aciclovir là một chất tương tự nucleosid, có tác dụng chọn lọc trên tế bào nhiễm virus Herpes, để có tác dụng aciclovir phải được phosphoryl hóa.
Atozet: thuốc hạ mỡ máu phối hợp
Làm giảm nguy cơ biến cố tim mạch ở bệnh nhân bệnh động mạch vành và có tiền sử hội chứng mạch vành cấp, đã điều trị bằng statin hay không
Acetate Ringer's: thuốc điều chỉnh cân bằng nước điện giải toan kiềm
Điều chỉnh cân bằng nước, điện giải; cân bằng acid-base; tình trạng giảm thể tích dịch cơ thể do mất máu (phẫu thuật, chấn thương, bỏng nặng). Dùng trong sốc giảm thể tích do mất nước trầm trọng, sốt xuất huyết Dengue.
Azurette: thuốc tránh thai dạng uống
Azurette (desogestrel / ethinyl estradiol và ethinyl estradiol tablet USP) được chỉ định để ngừa thai ở những phụ nữ có thai sử dụng sản phẩm này như một phương pháp tránh thai.
Amlodipine
Amlodipin là dẫn chất của dihydropyridin có tác dụng chẹn calci qua màng tế bào. Amlodipin ngăn chặn kênh calci loại L phụ thuộc điện thế, tác động trên các mạch máu ở tim và cơ.
AlbuRx: thuốc điều trị thiếu hụt albumin máu
Dùng để duy trì hay phục hồi thể tích máu tuần hoàn trong những trường hợp thiếu hụt thể tích tuần hoàn mà cần chỉ định sử dụng dung dịch keo. Sự lựa chọn albumin ưu tiên hơn các dung dịch keo nhân tạo sẽ tùy thuộc vào tình trạng lâm sàng của từng bệnh nhân.
Acid Ioxaglic: thuốc cản quang
Khi tiêm vào mạch máu, thuốc phân bố trong hệ mạch và khu vực gian bào, không làm tăng đáng kể thể tích máu lưu chuyển và không gây rối loạn cân bằng huyết động
Axcel Loratadine: thuốc chữa viêm mũi dị ứng và dị ứng da
Loratadine là thuốc kháng histamine thuộc nhóm 3 vòng có tác dụng kéo dài, có hoạt tính đối kháng chọn lọc các thụ thể histamine H1. Làm giảm các triệu chứng của bệnh viêm mũi dị ứng như là hắt hơi; chứng ngứa và đỏ mắt; mày đay mạn tính và dị ứng da.
Acetaminophen và Aspirin: thuốc giảm đau hạ sốt
Acetaminophen aspirin là sản phẩm không kê đơn (OTC) được sử dụng để giảm đau nhẹ do nhức đầu, đau nhức cơ, sốt, đau viêm khớp nhẹ và cảm lạnh. Acetaminophen / aspirin có sẵn dưới các tên thương hiệu khác.
Acebutolol hydrolorid: thuốc chẹn beta điều trị bệnh tim mạch
Acebutolol hydrolorid là dẫn chất của acebutolol thuộc nhóm thuốc chẹn beta- adrenergic được chỉ định trong điều trị các bệnh tăng huyết áp, rối loạn nhịp tim.
Argatroban: thuốc ngăn ngừa cục máu đông
Argatroban là một loại thuốc kê đơn được sử dụng để điều trị hoặc ngăn ngừa các triệu chứng của cục máu đông ở người lớn (giảm tiểu cầu) do sử dụng heparin và ở những người đang can thiệp mạch vành qua da.
Advagraf
Chuyển từ ciclosporin sang tacrolimus: Khởi đầu 12-24 giờ sau khi ngưng ciclosporin, tiếp tục theo dõi nồng độ ciclosporin máu vì độ thanh thải của ciclosporin có thể bị ảnh hưởng.
Augmentin Sachet
Uống vào đầu bữa ăn để hạn chế tối đa khả năng không dung nạp qua đường tiêu hóa. Sự hấp thu của AUGMENTIN là tối ưu khi uống thuốc vào đầu bữa ăn.
Abaloparatide: thuốc điều trị loãng xương sau mãn kinh
Abaloparatide được sử dụng để điều trị phụ nữ sau mãn kinh bị loãng xương có nguy cơ gãy xương cao, được xác định là có tiền sử gãy xương do loãng xương, có nhiều yếu tố nguy cơ gãy xương.
Alverine citrate: Akavic, Averinal, Beclorax, Cadispasmin, Dofopam, Dospasmin, Eftispasmin; Gloveri, thuốc giảm đau chống co thắt cơ trơn
Alverin citrat có tác dụng trực tiếp đặc hiệu chống co thắt cơ trơn ở đường tiêu hóa và tử cung, nhưng không ảnh hưởng đến tim, mạch máu và cơ khí quản ở liều điều trị
Aspirin: thuốc chống kết dính tiểu cầu và giảm đau
Aspirin chống kết tập tiểu cầu, aspirin được sử dụng trong một số bệnh lý tim mạch Aspirin được chỉ định để giảm các cơn đau nhẹ và vừa, đồng thời giảm sốt. Aspirin cũng được sử dụng trong chứng viêm cấp và mạn.
Abitrate
Thuốc Abitrate có thành phần hoạt chất là Clofibrat.
Amoxicillin
Amoxicilin uống hay tiêm đều cho những nồng độ thuốc như nhau trong huyết tương, nửa đời của amoxicilin khoảng 61,3 phút, dài hơn ở trẻ sơ sinh.
Acarbose
Acarbose là một tetrasacharid chống đái tháo đường, ức chế men alpha - glucosidase ruột đặc biệt là sucrase, làm chậm tiêu hóa và hấp thu carbohydrat.
Arbaclofen: thuốc điều trị bệnh đa xơ cứng và tự kỷ
Arbaclofen là một loại thuốc được sử dụng để giảm tình trạng co cứng liên quan đến bệnh đa xơ cứn. Arbaclofen cũng đang được nghiên cứu để cải thiện chức năng ở những bệnh nhân mắc hội chứng fragile X và chứng rối loạn phổ tự kỷ.
A Hydrocort
A - Hydrocort có thành phần hoạt chất là Hydrocortison.
Axcel Dicyclomine-S Syrup: thuốc điều trị đau bụng đầy hơi
Axcel Dicyclomine-S Syrup là một amin bậc 3 với tác dụng kháng hệ muscarinic tương tự nhưng yếu hơn atropin. Axcel Dicyclomine-S Syrup làm giảm các cơn đau bụng, đầy hơi và chứng tức bụng do đầy hơi.