Apidra SoloStar

2016-10-12 03:18 PM

Insulin glulisine phát huy tác dụng nhanh hơn insulin người thông thường khoảng hai lần và chấm dứt tác dụng hạ thấp glucose sớm hơn insulin người thông thường khoảng 2 giờ.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Nhà sản xuất

Sanofi Aventis.

Thành phần

Mỗi ml: Insulin glulisine 100 đơn vị.

Dược lực học

Insulin glulisine là chất tương đồng insulin người được tái tổ hợp có hoạt lực tương đương insulin người thông thường. Insulin glulisine có khởi phát tác động nhanh hơn và thời gian tác động ngắn hơn insulin người thông thường.

Hoạt tính chủ yếu của insulin và các chất tương đồng insulin, kể cả insulin glulisine, là điều hòa chuyển hóa glucose. Insulin hạ thấp nồng độ glucose trong máu bằng cách kích thích sự thu nạp glucose ở ngoại biên, đặc biệt là ở cơ vân và mỡ, và ức chế sự sản xuất glucose ở gan. Insulin ức chế sự phân giải lipid trong tế bào mỡ, ức chế sự phân giải protein và tăng cường tổng hợp protein.

Những nghiên cứu trên người tình nguyện khỏe mạnh và bệnh nhân đái tháo đường chứng minh rằng insulin glulisine có khởi phát tác động nhanh hơn và thời gian tác động ngắn hơn insulin người thông thường khi được tiêm dưới da. Khi được tiêm dưới da, hoạt tính hạ nồng độ glucose của insulin glulisine sẽ bắt đầu trong vòng 10-20 phút. Tác dụng hạ nồng độ glucose của insulin glulisine và insulin người thông thường tương đương nhau khi tiêm đường tĩnh mạch. Một đơn vị insulin glulisine có cùng một hoạt tính hạ nồng độ glucose như một đơn vị insulin người thông thường.

Tính chất tỉ lệ với liều dùng

Trong một nghiên cứu trên 18 đối tượng nam giới bị đái tháo đường týp 1 từ 21 đến 50 tuổi, insulin glulisine cho thấy tác dụng hạ thấp glucose tỉ lệ với liều dùng trong khoảng liều có ý nghĩa trị liệu từ 0,075 đến 0,15 đơn vị/kg, và tác dụng hạ thấp glucose tăng ít tỉ lệ hơn với liều 0,3 đơn vị/kg hoặc cao, giống như insulin người.

Insulin glulisine phát huy tác dụng nhanh hơn insulin người thông thường khoảng hai lần và chấm dứt tác dụng hạ thấp glucose sớm hơn insulin người thông thường khoảng 2 giờ.

Một nghiên cứu giai đoạn I trên bệnh nhân đái tháo đường týp 1 đã đánh giá đặc tính hạ nồng độ glucose của insulin glulisine và insulin người thông thường được tiêm dưới da với liều 0,15 đơn vị/kg, vào những thời gian khác nhau so với một bữa ăn tiêu chuẩn 15 phút. Số liệu cho thấy insulin glulisine được tiêm trước bữa ăn 2 phút có tác dụng kiểm soát đường huyết sau bữa ăn tương tự như insulin người thông thường được tiêm trước bữa ăn 30 phút. Khi được tiêm trước bữa ăn 2 phút, insulin glulisine kiểm soát đường huyết sau bữa ăn tốt hơn so với insulin người thông thường được tiêm trước bữa ăn 2 phút. Insulin glulisine tiêm 15 phút sau khi bắt đầu bữa ăn có tác dụng kiểm soát đường huyết tương tự như insulin người thông thường được tiêm trước bữa ăn 2 phút.

Béo phì

Một nghiên cứu giai đoạn I đã được thực hiện với insulin glulisine, lispro và insulin người thông thường trên một quần thể người béo phì chứng minh rằng insulin glulisine vẫn duy trì tính chất tác động nhanh của nó. Trong nghiên cứu này, thời gian đến lúc đạt 20% AUC toàn phần và AUC (0-2 giờ), mô tả cho hoạt tính hạ nồng độ glucose sớm, theo thứ tự là 114 phút và 427 mg.kg-1 đối với insulin glulisine, 121 phút và 354 mg.kg-1 đối với lispro, 150 phút và 197 mg.kg-1 đối với insulin người thông thường.

Một nghiên cứu giai đoạn I khác với insulin glulisine và insulin lispro trên một quần thể không đái tháo đường, với 80 đối tượng có chỉ số thân khối biến thiên khá rộng (18-46 kg/m2), đã chứng minh tác dụng nhanh nói chung được giữ vững trong một phạm vi rộng của chỉ số thân khối, trong khi tổng tác dụng hạ thấp glucose giảm đi khi tăng béo phì.

Trị số trung bình của GIR (tốc độ truyền glucose) AUC từ 0-1 giờ là 102±75 mg/kg và 158±100 mg/kg, theo thứ tự với liều 0,2 và 0,4 đơn vị/kg insulin glulisine, và là 83,1±72,8 mg/kg và 112,3±70,8 mg/kg, theo thứ tự, với liều 0,2 và 0,4 U/kg insulin lispro. 

Một nghiên cứu giai đoạn I trên 18 bệnh nhân đái tháo đường týp 2 béo phì (BMI từ 35 đến 40 kg/m2) với insulin glulisine và insulin lispro [KTC 90%: 0,81, 0,95 (p ≤ 0,01)] cho thấy insulin glulisine kiểm soát một cách hữu hiệu nồng độ glucose trong máu sau bữa ăn vào ban ngày. 

Các nghiên cứu lâm sàng

Đái tháo đường týp 1-Người lớn

Trong một nghiên cứu lâm sàng giai đoạn III 26 tuần so sánh insulin glulisine với insulin lispro, cả hai thuốc đều được tiêm dưới da trong thời gian ngắn (0-15 phút) trước khi ăn, trên bệnh nhân đái tháo đường týp 1 đang dùng insulin glargine làm insulin nền, insulin glulisine kiểm soát đường huyết tương tự như insulin lispro, được phản ánh bởi sự thay đổi của hemoglobin glycat hóa (GHb được biểu diễn bằng đương lượng HbA1c) từ lúc ban đầu đến khi kết thúc nghiên cứu. Các trị số đường huyết tự theo dõi được nhận thấy tương tự như nhau. Với insulin glulisine, không cần tăng liều insulin nền, trái ngược với insulin lispro.

Một nghiên cứu lâm sàng giai đoạn III 12 tuần được thực hiện trên bệnh nhân đái tháo đường týp 1 đang dùng insulin glargine làm trị liệu nền cho thấy việc tiêm insulin glulisine ngay sau bữa ăn đem lại hiệu quả tương tự như tiêm ngay trước bữa ăn (0-15 phút) với insulin glulisine hoặc với insulin thông thường (30-45 phút).

Trong quần thể tuân thủ đề cương nghiên cứu, GHb ở nhóm dùng insulin glulisine trước bữa ăn được nhận thấy giảm lớn hơn một cách có ý nghĩa so với nhóm dùng insulin thông thường.

Đái tháo đường týp 1-Trẻ em

Một nghiên cứu lâm sàng giai đoạn III 26 tuần so sánh insulin glulisine với insulin lispro, cả hai thuốc đều được tiêm dưới da trong thời gian ngắn (0-15 phút) trước bữa ăn, trên trẻ em (4-5 tuổi: n=9; 6-7 tuổi: n=32 và 8-11 tuổi: n=149) và thiếu niên (12-17 tuổi: n=382) bị đái tháo đường týp 1 đang dùng insulin glargine hoặc NPH như là insulin nền. Insulin glulisine tỏ ra tương tự insulin lispro về mặt kiểm soát đường huyết, được phản ánh qua sự thay đổi nồng độ hemoglobin glycat (GHb được biểu diễn bằng đương lượng HbA1c) từ lúc ban đầu đến khi kết thúc và qua các trị số đường huyết tự theo dõi.

Không có đủ thông tin lâm sàng về việc sử dụng Apidra ở trẻ em dưới 6 tuổi.

Đái tháo đường týp 2-Người lớn

Một nghiên cứu lâm sàng giai đoạn III 26 tuần được tiếp nối bằng một nghiên cứu mở rộng 26 tuần về độ an toàn đã được thực hiện để so sánh insulin glulisine (0-15 phút trước bữa ăn) với insulin người thông thường (30-45 phút trước bữa ăn) được tiêm dưới da trên bệnh nhân đái tháo đường týp 2 đang dùng NPH insulin làm insulin nền. Chỉ số thân khối (BMI) trung bình của bệnh nhân là 34,55 kg/m2. Insulin glulisine tỏ ra tương tự như insulin người thông thường về phương diện thay đổi nồng độ hemoglobin glycat (được biểu diễn bằng đương lượng HbA1c) từ lúc ban đầu đến khi kết thúc 6 tháng (-0,46% đối với insulin glulisine và -0,30% đối với insulin người thông thường, p=0,0029) và từ lúc ban đầu đến khi kết thúc 12 tháng (-0,23% đối với insulin glulisine và -0,13% đối với insulin người thông thường, sự khác biệt không có ý nghĩa). Trong nghiên cứu này, đa số bệnh nhân (79%) đã trộn chung insulin tác động ngắn với NPH insulin ngay trước khi tiêm và 58% số đối tượng đã dùng thuốc uống hạ đường huyết khi ngẫu nhiên hóa và được hướng dẫn tiếp tục sử dụng chúng với liều lượng như cũ.

Chủng tộc và Giới tính

Trong các nghiên cứu lâm sàng có đối chứng trên người lớn, insulin glulisine không cho thấy bất cứ sự khác biệt nào về độ an toàn và hiệu quả trong các phân tích phân nhóm theo chủng tộc và giới tính.

Dược động học

Trong insulin glulisine, sự thay thế acid amin asparagin ở vị trí B3 của insulin người bằng lysin, và thay lysin ở vị trí B29 bằng acid glutamic đã tạo điều kiện cho sự hấp thu nhanh hơn.

Trong một nghiên cứu ở 18 đối tượng nam giới bị đái tháo đường týp 1, từ 21 đến 50 tuổi, insulin glulisine thể hiện tính chất tỉ lệ liều dùng khi phơi nhiễm sớm, tối đa và hoàn toàn trong khoảng liều từ 0,075 đến 0,4 đơn vị/kg.

Hấp thu và sinh khả dụng

Các đặc tính dược động học trên người tình nguyện khỏe mạnh và bệnh nhân đái tháo đường (týp 1 hoặc 2) chứng minh rằng sự hấp thu insulin glulisine nhanh gần gấp đôi với nồng độ đỉnh cao xấp xỉ gấp đôi so với insulin người thông thường.

Trong một nghiên cứu trên bệnh nhân đái tháo đường týp 1 sau khi tiêm dưới da 0,15 đơn vị/kg, đối với insulin glulisine các trị số Tmax là 55 phút và Cmax là 82 ± 1,3 microU/ml so với Tmax = 82 phút và Cmax = 46 ± 1,3 microU/ml của insulin người thông thường. Thời gian lưu trung bình của insulin glulisine ngắn hơn (98 phút) so với insulin người thông thường (161 phút). 

Trong một nghiên cứu trên bệnh nhân đái tháo đường týp 2 sau khi tiêm dưới da 0,2 đơn vị/kg insulin glulisine, nồng độ tối đa Cmax là 91 microU/ml với khoảng liên tứ phân vị từ 78 đến 104 microU/ml.

Khi insulin glulisine được tiêm dưới da vào thành bụng, vai và đùi, diễn biến nồng độ theo thời gian đều tương tự nhau, với sự hấp thu khi tiêm ở bụng hơi nhanh hơn so với tiêm ở đùi, còn sự hấp thu khi tiêm ở vai nằm trong khoảng giữa (xem mục Liều lượng và cách dùng). Sinh khả dụng tuyệt đối (70%) của insulin glulisine tương tự nhau giữa các vị trí tiêm và có độ biến thiên thấp trong cùng một đối tượng (hệ số biến thiên 11%).

Béo phì. Một nghiên cứu giai đoạn I khác với insulin glulisine và insulin lispro trên một quần thể không đái tháo đường, với 80 đối tượng có chỉ số thân khối biến thiên khá rộng (18-46 kg/m2), chứng minh rằng sự hấp thu nhanh và tổng phơi nhiễm nói chung được giữ vững trong một phạm vi rộng của chỉ số thân khối.

Thời gian đến lúc đạt 10% tổng phơi nhiễm insulin sớm hơn khoảng 5-6 phút với insulin glulisine.

Phân bố và thải trừ

Sự phân bố và thải trừ của insulin glulisine và insulin người thông thường sau khi tiêm tĩnh mạch tương tự nhau, với thể tích phân bố theo thứ tự là 13 l và 22 l và thời gian bán thải là 13 và 18 phút.

Sau khi tiêm dưới da, insulin glulisine được thải trừ nhanh hơn insulin người thông thường, với thời gian bán thải biểu kiến là 42 phút so với 86 phút. Trong một phân tích nghiên cứu cắt ngang về insulin glulisine trên các đối tượng khỏe mạnh hoặc đối tượng đái tháo đường týp 1 hoặc týp 2, thời gian bán thải biểu kiến thay đổi từ 37 đến 75 phút (khoảng liên tứ phân vị).

Insulin glulisine ít gắn với protein huyết tương, tương tự như insulin người.

Các quần thể đặc biệt

Suy thận. Trong một nghiên cứu lâm sàng được thực hiện trên các đối tượng không đái tháo đường có chức năng thận ở những mức độ khác nhau (CrCl > 80 ml/phút, 30-50 ml/phút, < 30 ml/phút), tính chất tác động nhanh của insulin glulisine nói chung vẫn được giữ vững. Tuy nhiên, nhu cầu insulin có thể giảm khi có suy thận.

Suy gan: Tính chất dược động học chưa được khảo sát trên bệnh nhân suy chức năng gan.

Người già: Có rất ít số liệu dược động học đối với bệnh nhân cao tuổi bị đái tháo đường.

Trẻ em và thiếu niên. Các tính chất dược động học và dược lực học của insulin glulisine đã được khảo sát trên trẻ em (7-11 tuổi) và thiếu niên (12-16 tuổi) bị đái tháo đường týp 1. Insulin glulisine được hấp thu nhanh ở cả hai nhóm tuổi này, với Tmax và Cmax tương tự như ở người lớn (xem mục Liều lượng và cách dùng). Khi được tiêm ngay trước một bữa ăn, insulin glulisine đem lại sự kiểm soát đường huyết sau bữa ăn tốt hơn insulin người thông thường, như ở người lớn (xem mục Dược lực học). Diễn biến nồng độ glucose theo thời gian (AUC0-6h) là 641 mg.h.dl-1 đối với insulin glulisine và 801 mg.h.dl-1 đối với insulin người thông thường.

An toàn tiền lâm sàng

Số liệu tiền lâm sàng không phát hiện được kết quả độc tính, ngoài những gì liên quan với hoạt tính dược lực hạ nồng độ glucose trong máu (hạ đường huyết), khác với insulin người thông thường hoặc có ý nghĩa lâm sàng đối với con người.

Chỉ định/Công dụng

Dùng điều trị cho người lớn, thiếu niên và trẻ em từ 6 tuổi trở lên bị đái tháo đường, cần điều trị insulin.

Liều lượng & Cách dùng

Hàm lượng của chế phẩm này được tính bằng đơn vị. Đây là loại đơn vị dùng riêng cho Apidra và không giống với đơn vị quốc tế (IU) hoặc đơn vị dùng để biểu diễn hàm lượng của các thuốc tương đồng insulin khác (xem Dược lực học).

Apidra cần được tiêm trong thời gian ngắn (0-15 phút) trước hoặc sau bữa ăn.
Nên dùng Apidra trong các phác đồ có một chất tương đồng insulin tác dụng dài hoặc trung bình hoặc insulin nền, và có thể dùng với các thuốc hạ đường huyết dạng uống.

Liều dùng Apidra phải được điều chỉnh cho từng người.

Cách dùng:

Apidra được tiêm dưới da hoặc hoặc tiêm truyền dưới da liên tục bằng bơm.

Nên tiêm Apidra dưới da ở thành bụng, đùi hoặc vai hoặc tiêm truyền liên tục ở thành bụng. Cần luân phiên thay đổi vị trí tiêm hoặc tiêm truyền ở trong một vùng tiêm (bụng, đùi hoặc vai) giữa các lần tiêm. Tốc độ hấp thu, và do vậy khởi phát và thời gian tác động, có thể bị ảnh hưởng bởi vị trí tiêm, sự vận động thể lực, và các biến số khác. Tiêm dưới da ở thành bụng bảo đảm được sự hấp thu hơi nhanh hơn so với các vị trí tiêm khác (xem Dược động học).

Cần thận trọng để bảo đảm không đâm kim vào mạch máu. Sau khi tiêm, không nên xoa chỗ tiêm. Bệnh nhân cần được huấn luyện để tiêm thuốc đúng kỹ thuật.

Trộn chung các insulin

Vì không có các nghiên cứu về tính tương hợp, không được trộn chung insulin glulisine với các thuốc khác ngoại trừ insulin NPH người.

Trước khi dùng bút tiêm SoloStar, phải đọc kỹ hướng dẫn sử dụng trong trong tờ hướng dẫn trong hộp thuốc.

Các quần thể đặc biệt

Suy thận: Các tính chất dược động học của insulin glulisine thường được giữ vững trên bệnh nhân suy thận. Tuy vậy, nhu cầu insulin có thể giảm khi có sự hiện diện của suy thận (xem Dược động học).

Suy gan: Các tính chất dược động học của insulin glulisine chưa được khảo sát trên bệnh nhân suy giảm chức năng gan. Trên bệnh nhân suy gan, nhu cầu insulin có thể giảm do giảm khả năng tân sinh đường và giảm chuyển hóa insulin.

Người già: Số liệu dược động học trên bệnh nhân đái tháo đường cao tuổi còn hạn chế. Sự suy giảm chức năng thận có thể dẫn đến giảm nhu cầu insulin.
Trẻ em và thiếu niên: Không có đủ thông tin lâm sàng về việc sử dụng Apidra trên trẻ em dưới 6 tuổi.

Cảnh báo

Chuyển một bệnh nhân sang dùng một loại hoặc một nhãn hiệu insulin mới cần được thực hiện dưới sự giám sát y khoa chặt chẽ. Những thay đổi về hàm lượng, nhãn hiệu (hãng sản xuất), loại (thông thường, NPH, chậm, v.v…), loài (vật) và/hoặc phương pháp sản xuất có thể làm thay đổi liều dùng. Cần điều chỉnh trị liệu thuốc viên trị đái tháo đường dùng chung.

Sử dụng không đủ liều hoặc ngưng điều trị, đặc biệt là trên bệnh nhân đái tháo đường phụ thuộc insulin, có thể dẫn đến tăng đường huyết và nhiễm toan-keton đái tháo đường; những tình trạng có tiềm năng tử vong.

Chuyển bệnh nhân sang dùng một loại hoặc một nhãn hiệu insulin mới cần được thực hiện dưới sự giám sát y khoa chặt chẽ và có thể cần phải thay đổi liều lượng.

Hạ đường huyết

Thời gian xuất hiện hạ đường huyết tùy thuộc đặc tính tác động của insulin được dùng, và do vậy sẽ thay đổi khi phác đồ điều trị thay đổi.

Những tình trạng làm cho các triệu chứng cảnh báo sớm của hạ đường huyết khác đi hoặc kém rõ ràng hơn bao gồm bệnh đái tháo đường lâu ngày, liệu pháp insulin tăng cường, bệnh lý thần kinh đái tháo đường, dùng thuốc như thuốc chẹn bêta hoặc sau khi chuyển từ insulin nguồn gốc động vật sang dùng insulin người. Cũng cần phải chỉnh liều nếu bệnh nhân tăng hoạt động thể lực hoặc thay đổi kế hoạch ăn uống thường lệ. Vận động thể lực ngay sau bữa ăn có thể làm tăng nguy cơ hạ đường huyết.

Nếu hạ đường huyết xảy ra sau khi tiêm insulin tương tự tác dụng nhanh, nó có thể xảy ra sớm hơn khi so sánh với insulin người loại hòa tan.
Các phản ứng hạ đường huyết hoặc tăng đường huyết, nếu không được điều trị, có thể gây mất tri giác, hôn mê, hoặc tử vong.

Nhu cầu insulin có thể thay đổi trong khi đau ốm hoặc có các rối loạn tâm lý.

Thao tác với bút tiêm

Trước khi dùng SoloStar, phải đọc kỹ những chỉ dẫn trong tờ hướng dẫn sử dụng trong hộp thuốc.

Tác động của thuốc khi lái xe và vận hành máy móc

Khả năng tập trung và phản ứng của bệnh nhân có thể suy giảm do hệ quả của hạ đường huyết hoặc tăng đường huyết, hoặc có thể do suy giảm thị lực chẳng hạn. Đây sẽ là một nguy cơ trong các tình huống mà những khả năng này tỏ ra quan trọng đặc biệt (ví dụ lái xe hoặc vận hành máy).

Quá liều

Hạ đường huyết có thể xảy ra như là một hệ quả của hoạt tính insulin quá cao so với thức ăn ăn vào và sự tiêu hao năng lượng.

Hiện không có số liệu chuyên biệt về quá liều insulin glulisine. Tuy nhiên, hạ đường huyết có thể xảy ra qua những giai đoạn kế tiếp nhau:

Có thể điều trị cơn hạ đường huyết nhẹ bằng cách cho uống glucose hoặc sản phẩm đường. Do đó, bệnh nhân đái tháo đường lúc nào cũng nên mang theo một ít đường viên, kẹo, bánh qui hoặc nước trái cây có đường.

Có thể điều trị cơn hạ đường huyết nặng, khi bệnh nhân trở nên mất tri giác, bằng glucagon (0,5 đến 1 mg) tiêm bắp hoặc tiêm dưới da bởi một người đã được hướng dẫn thích hợp, hoặc bằng glucose tiêm tĩnh mạch bởi một nhân viên y tế. Glucose cũng được tiêm tĩnh mạch nếu bệnh nhân không đáp ứng với glucagon trong vòng 10 đến 15 phút. Khi đã lấy lại tri giác, nên cho bệnh nhân dùng carbohydrat bằng đường uống để đề phòng tái phát.

Sau khi tiêm glucagon, nên theo dõi bệnh nhân trong bệnh viện để tìm lý do của hạ đường huyết nặng và ngăn ngừa các cơn tương tự khác.

Chống chỉ định

Tăng mẫn cảm với hoạt chất hoặc với bất kỳ tá dược nào.

Hạ đường huyết.

Có thai

Không có đủ số liệu về việc sử dụng insulin glulisine trên phụ nữ có thai.

Những nghiên cứu sinh sản trên động vật không phát hiện thấy bất cứ sự khác biệt nào giữa insulin glulisine và insulin người trên thai nghén, sự phát triển phôi/thai, sự sinh đẻ hoặc sự phát triển sau sinh (xem mục Số liệu an toàn tiền lâm sàng).

Cần thận trọng khi kê toa cho phụ nữ có thai. Nhất thiết phải theo dõi kỹ việc kiểm soát glucose.

Điều thiết yếu đối với bệnh nhân bị đái tháo đường từ trước hoặc đái tháo đường khi có thai là duy trì một sự kiểm soát tốt chuyển hóa trong suốt thai kỳ. Nhu cầu insulin có thể giảm trong ba tháng đầu và thường tăng trong ba tháng giữa và ba tháng cuối thai kỳ. Ngay sau khi sinh, nhu cầu insulin giảm nhanh.

Nuôi con bằng sữa mẹ

Không rõ insulin glulisine có được tiết vào sữa mẹ hay không, nhưng nói chung insulin không đi vào sữa mẹ và không được hấp thu qua đường miệng.
Những bà mẹ cho con bú mẹ cần chỉnh liều insulin và điều chỉnh chế độ ăn.

Tương tác

Chưa có các nghiên cứu về tương tác dược động học. Dựa trên sự hiểu biết qua kinh nghiệm với những dược phẩm tương tự, ít có khả năng xảy ra những tương tác dược động học có ý nghĩa lâm sàng.

Có một số chất ảnh hưởng sự chuyển hóa glucose và có thể phải cần chỉnh liều insulin glulisine và đặc biệt phải theo dõi sát.

Các chất tăng cường tác dụng hạ thấp glucose trong máu và làm tăng tính cảm nhiễm với hạ đường huyết bao gồm thuốc chống đái tháo đường dạng uống, thuốc ức chế enzym chuyển đổi angiotensin (ACE), disopyramid, fibrat, fluoxetin, thuốc ức chế monoamin oxidase (MAO), pentoxifyllin, propoxyphen, salicylat và các kháng sinh sulfonamide.

Các chất làm giảm tác dụng hạ thấp glucose trong máu bao gồm corticosteroid, danazol, diazoxid, thuốc lợi tiểu, glucagon, isoniazid, các dẫn chất phenothiazin, somatropin, thuốc cường giao cảm (ví dụ epinephrin [adrenalin], salbutamol, terbutalin), hormon giáp, estrogen, progestin (ví dụ thuốc viên tránh thai), thuốc ức chế protease các thuốc chống loạn thần không điển hình (ví dụ olanzapin và clozapin).

Thuốc chẹn bêta, clonidin, muối lithium hoặc rượu có thể tăng cường hoặc làm giảm tác dụng hạ glucose trong máu của insulin. Pentamidin có thể gây hạ đường huyết, rồi tiếp đó đôi khi là tăng đường huyết.

Ngoài ra, dưới ảnh hưởng của các thuốc liệt giao cảm như thuốc chẹn bêta, clonidin, guanethidin và reserpin, các dấu hiệu của phản điều hòa giao cảm có thể giảm đi hoặc mất hẳn.

Tương kỵ

Vì không có các nghiên cứu về tương hợp, nên không được trộn chung insulin glulisine với bất cứ chế phẩm nào ngoài NPH insulin người.

Tác dụng ngoại ý

Hạ đường huyết thường là tác dụng không mong muốn hay gặp nhất của liệu pháp insulin, có thể xảy ra khi liều insulin quá cao so với nhu cầu insulin.
Những phản ứng bất lợi có liên quan sau đây từ các nghiên cứu lâm sàng được liệt kê theo hệ thống cơ quan và theo tần suất giảm dần (rất hay gặp: ≥ 1/10; hay gặp: ≥ 1/100 đến < 1/10; ít gặp: ≥ 1/1,000 đến < 1/100; hiếm gặp: ≥ 1/10,000 đến < 1/1,000; rất hiếm: < 1/10,000), không rõ (không thể ước tính từ những số liệu hiện có). 

Trong mỗi nhóm tần suất, các tác dụng không mong muốn được trình bày theo thứ tự độ nặng giảm dần.

Rối loạn chuyển hóa và dinh dưỡng

Rất hay gặp: Hạ đường huyết

Triệu chứng của hạ đường huyết thường xảy ra đột ngột. Đó là vã mồ hôi lạnh, da lạnh tái, mệt, căng thẳng thần kinh hoặc run tay, lo sợ, mệt mỏi hoặc yếu sức khác thường, lú lẫn, khó tập trung, ngủ gà, đói lả, thay đổi thị lực, nhức đầu, buồn nôn và đánh trống ngực. Hạ đường huyết có thể trở nên nghiêm trọng và dẫn đến mất tri giác và/hoặc co giật và có thể tạm thời hoặc vĩnh viễn làm giảm chức năng não hoặc thậm chí tử vong.

Rối loạn da và mô dưới da

Hay gặp: phản ứng tại chỗ tiêm và phản ứng dị ứng tại chỗ.

Phản ứng dị ứng tại chỗ (đỏ, sưng và ngứa tại chỗ tiêm) có thể xảy ra trong khi điều trị với insulin. Những phản ứng này thường tạm thời và bình thường biến mất khi tiếp tục điều trị.

Hiếm: Loạn dưỡng mỡ

Loạn dưỡng mỡ có thể xảy ra ở chỗ tiêm như là một hậu quả của việc không quay vòng các vị trí tiêm trong một vùng.

Rối loạn toàn thân

Ít gặp: Phản ứng dị ứng toàn thân

Phản ứng dị ứng toàn thân có thể bao gồm nổi mề đay, tức ngực, khó thở, viêm da dị ứng và ngứa. Những trường hợp toàn thân nặng, kể cả phản ứng phản vệ, có thể đe dọa tính mạng.

Bảo quản

Bút tiêm chưa dùng

Bảo quản trong tủ lạnh (2oC-8oC). Không được để đông lạnh. Không đặt Apidra sát với ngăn đá hoặc vỉ nước đá.

Giữ nguyên bút tiêm nạp sẵn trong hộp của nó để tránh ánh sáng.

Trước khi dùng lần đầu, phải để bút tiêm ở nhiệt độ phòng trong 1 đến 2 giờ.

Hạn dùng sau khi mở nắp bút lần đầu

Sản phẩm có thể bảo quản tối đa là 4 tuần ở nhiệt độ không quá 25oC, tránh sức nóng hoặc ánh sáng trực tiếp. Không được bảo quản bút tiêm đang dùng trong tủ lạnh. Sau mỗi lần tiêm phải đậy nắp bút để bảo vệ tránh ánh sáng.

Trình bày/Đóng gói

Bút tiêm bơm sẵn insulin: hộp 5 bút x 3ml.

Bài viết cùng chuyên mục

Adacel

Bệnh lý não (hôn mê, giảm tri giác, co giật kéo dài) không do một nguyên nhân xác định nào khác xảy ra trong vòng 7 ngày sau khi tiêm một liều vắc-xin bất kỳ có thành phần ho gà.

Algotra: thuốc giảm đau không có chất gây nghiện và hạ sốt

Nên chọn liều thấp nhất có hiệu quả, người lớn và thanh thiếu niên trên 12 tuổi, khởi đầu 2 viên một ngày, có thể tăng liều nhưng không quá 8 viên/ngày, cách khoảng các liều không ít hơn 6 tiếng.

Aminosteril

Aminosteril 5% là dung dịch acid amin đầu tiên dùng cho người lớn có chứa taurine, giúp bệnh nhân có một chế độ nuôi dưỡng qua đường tĩnh mạch hợp lý nhất.

Amigreen TPN

Liều tối đa là 1 - 1,5 g/kg/ngày, truyền tĩnh mạch với tốc độ không quá 10 g/60 phút. Trẻ em, người già, bệnh nhân phỏng cần điều chỉnh liều và tốc độ truyền cho phù hợp với từng bệnh nhân.

Amigold: thuốc phòng và điều trị thiếu protein

Amigold phòng, điều trị thiếu nitơ (protein) hoặc xử lý cân bằng nitơ âm tính khi: Đường tiêu hóa, qua miệng, dạ dày, hoặc các đường dung nạp chất dinh dưỡng khác không thể hoặc không nên sử dụng.

Allopurinol Stada: thuốc điều trị bệnh gout do hình thành acid uric

Allopurinol Stada giảm sự hình thành urat/acid uric trong những bệnh cảnh gây lắng đọng urat/acid uric (như viêm khớp do gút, sạn urat ở da, sỏi thận) hoặc nguy cơ lâm sàng có thể dự đoán được.

Augmentin SR

Điều trị ngắn hạn nhiễm khuẩn đường hô hấp, như viêm phổi mắc phải tại cộng đồng, đợt cấp viêm phế quản mạn, viêm xoang cấp do vi khuẩn.

Alpha Chymotrypsin

Chymotrypsin cũng được sử dụng nhằm giảm viêm và phù mô mềm do áp xe và loét, hoặc do chấn thương và nhằm giúp làm lỏng các dịch tiết đường hô hấp trên ở người bệnh hen.

Mục lục các thuốc theo vần A

A - Gram - xem Amoxicilin, A - Hydrocort - xem Hydrocortison, A - Methapred - xem Methyl prednisolon, A.P.L, xem Chorionic gonadotropin - Các gonadotropin, A.T.P - xem Adenosin

Arthrodont

Nhũ nhi và trẻ em dưới 3 tuổi do trong thành phần có menthol có thể gây các ảnh hưởng trên thần kinh như co giật khi dùng liều cao.

Abbodop

Thuốc Abbodop có thành phần hoạt chất là Dopamin.

Articulin: thuốc điều trị bệnh viêm xương khớp

Articulin được chỉ định sử dụng là cho bệnh viêm xương khớp. Articulin cho thấy điểm số giảm đau và khuyết tật giảm đáng kể mà không có những thay đổi trên ảnh chụp X quang.

Acemetacin Stada

Đợt cấp của bệnh gout: 1 viên x 3 lần /ngày, uống cho đến khi hết triệu chứng. Bệnh nhân không bị rối loạn tiêu hóa: có thể tăng liều lên 300mg/ngày, khởi đầu 2 viên, sau đó thêm 1 viên mỗi 8 giờ.

Acetaminophen Dextromethorphan Pseudoephedrine

Acetaminophen dextromethorphan pseudoephedrine là sản phẩm không kê đơn (OTC) được sử dụng để giảm triệu chứng ho và tắc nghẽn.

Aluvia

Phối hợp thuốc kháng retrovirus khác điều trị nhiễm HIV 1. Lựa chọn Aluvia cho bệnh nhân đã từng sử dụng thuốc ức chế protease nên dựa vào xét nghiệm đề kháng virus và tiền sử điều trị..

Axcel Fusidic acid Cream: thuốc điều trị nhiễm trùng da

Axcel Fusidic acid Cream được chỉ định để điều trị nhiễm trùng da do tụ cầu và các vi sinh vật khác nhạy cảm với fusidic. Acid fusidic có cấu trúc steroid, thuộc nhóm fusinadines, có tác dụng kháng khuẩn tại chỗ khi sử dụng ngoài.

Aberel

Các thể bệnh trứng cá, trừ trứng cá đỏ, dùng cho các trường hợp như trứng cá thường, hội chứng Favre, và Racouchot, các bệnh trứng cá nghề nghiệp.

Azelastine: thuốc điều trị viêm mũi

Azelastine là thuốc kê đơn và thuốc không kê đơn được sử dụng để điều trị viêm mũi dị ứng theo mùa và lâu năm cũng như viêm mũi vận mạch. Azelastine có sẵn dưới các tên thương hiệu Astelin Nasal Spray, Astepro, Astepro Allergy, Children's Astepro Allergy.

Atocib 120: thuốc điều trị và triệu chứng bệnh viêm xương khớp

Điều trị cấp tính và mạn tính các dấu hiệu và triệu chứng bệnh viêm xương khớp và viêm khớp dạng thấp. Điều trị viêm đốt sống dính khớp. Điều trị viêm khớp thống phong cấp tính. Giảm đau cấp tính và mạn tính.

Allogeneic Cultured Keratinocytes/Fibroblasts in Bovine Collagen

Sản phẩm allogeneic, được phân loại tế bào được chỉ định cho ứng dụng tại chỗ cho giường vết thương mạch máu được tạo ra bằng phẫu thuật trong điều trị các tình trạng viêm niêm mạc ở người lớn.

Apo Ranitidine

Mặc khác, tính theo độ acid trong 24 giờ và lượng acid tiết ra vào ban đêm, 150 mg ranitidine dùng hai lần mỗi ngày ưu việt hơn 200 mg cimetidine ba lần mỗi ngày và 400 mg vào buổi tối.

Ameferro

Thời gian điều trị phải đủ để’ điều chỉnh tình trạng thiếu máu và nguồn dự trữ sắt, trung bình 3 đến 4 tháng, có thể lâu hơn nếu không giải quyết được nguyên nhân thiếu máu

Ataluren: thuốc điều trị chứng loạn dưỡng cơ

Ataluren là một phương pháp điều trị nghiên cứu đang được phát triển để điều trị chứng loạn dưỡng cơ Duchenne do một đột biến vô nghĩa trong gen dystrophin ở bệnh nhân lưu động từ 2 tuổi trở lên và chứng loạn dưỡng cơ Becker.

Ambroxol

Ambroxol là một chất chuyển hóa của bromhexin, có tác dụng và công dụng như bromhexin. Ambroxol được coi như có tác dụng long đờm và làm tiêu chất nhầy nhưng chưa được chứng minh đầy đủ.

Asperlican/Candinazol: thuốc điều trị và phòng nhiễm nấm

Asperlican/Candinazol có tác dụng kháng nấm do làm biến đổi và tăng tính thấm màng tế bào, làm thoát các yếu tố thiết yếu (amino acid, kali) và làm giảm nhập các phân tử tiền chất (purin và pyrimidin tiền chất của DNA).